Bản Án Số 06.2024.LĐ-ST. Tranh Chấp Về Yêu Cầu Tuyên Bố Hợp Đồng Lao Động Vô Hiệu
Bản án số: 06/2024/LĐ-ST
Nguyên đơn: Bà Trần Thị T.
Bị đơn: Công ty TNHH O
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm xã hội Tp. D, tỉnh Bình Dương – Bà Lê Thị T1.
V/v: Tranh chấp về yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu
Nội dung vụ án
Nguyên đơn: Bà Trần Thị T.
Năm 2004, bà Lê Thị T1 sử dụng Chứng minh nhân dân (CMND) và thông tin cá nhân của bà Trần Thị T là em họ của bà Lê Thị T1 để xin việc làm tại Công ty TNHH O. Công ty TNHH O ký kết hợp đồng lao động và tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) cho bà Lê Thị T1 bằng thông tin và CMND của bà Trần Thị T. Mã số BHXH số 9104130944. Thời gian tham gia từ tháng 09/2004, đến tháng 03/2005 thì bà T1 nghỉ việc.
Trong khoảng thời gian này, thực tế Bà Trần Thị T cũng làm việc và tham gia BHXH tại Công ty TNHH G với tên Trần Thị T, mã số BHXH số 9103127147. Thời gian làm việc từ tháng 01/2004 đến tháng 11/2021.
Sau đó, nhận thấy việc bà Lê Thị T1 mượn hồ sơ, giấy tờ để giao kết hợp đồng lao động với Công ty TNHH O và tham gia BHXH là vi phạm nguyên tắc trung thực, gian dối khi giao kết hợp đồng lao động, bà Trần Thị T khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng lao động giao kết giữa Công ty TNHH O và tên người lao động Trần Thị T do bà Lê Thị T1 sử dụng trong thời gian từ tháng 09/2004 đến tháng 03/2005 là vô hiệu do không đúng người, không phải là bà Trần Thị T. Bà Trần Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
Bị đơn: Công ty TNHH O
Công ty TNHH O có xác lập quan hệ lao động với người lao động tên Trần Thị T sinh ngày 05/09/1983, CMND số 194168899 vào tháng 09/2004. Đến tháng 03/2005 thì kết thúc quan hệ lao động. Trong quá trình làm việc Công ty có tham gia bảo hiểm xã hội cho lao động tên Trần Thị T tại BHXH thành phố D, tỉnh Bình Dương . Việc ký kết hợp đồng lao động với người lao động tên Trần Thị T là hoàn toàn có thật, bà Trần Thị T cho rằng bà Lê Thị T1 sử dụng CMND và thông tin của bà để ký kết lao động với Công ty TNHH O thì Công ty không biết. Đến thời điểm hiện tại (Ngày 11/1/2024) nguyên đơn khởi kiện yêu cầu tuyên vô hiệu hợp đồng lao động giữa người lao động tên Trần Thị T và Công ty TNHH O từ tháng 09/2004 đến tháng 03/2005 thì Công ty không biết vì thực tế hai bên đã chấm dứt hợp đồng từ tháng 03/2005.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm xã hội Tp. D, tỉnh Bình Dương – Bà Lê Thị T1.
Bảo hiểm xã hội Tp. D tỉnh Bình Dương. Qua đối chiếu dữ liệu tham gia BHXH, BHYT, BHTN của Công ty TNHH O cho người lao động, Công ty TNHH O có tham gia BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động tên Trần Thị T sinh năm 1983, số CMND 194168899 với mã số BHXH 9104130944 từ tháng 09/2004 đến tháng 03/2005 và chưa nhận trợ cấp BHXH và BHTN. Người lao động tên Trần Thị T sinh năm 1983, số CMND 194168899 còn tham gia bảo hiểm trong khoảng thời gian từ tháng 01/2004 đến tháng 11/2021 tại Công ty TNHH G. BHXH Tp D tỉnh bình Dương không lưu giữ hợp đồng lao động, giấy tờ tùy thân của người lao động. Đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định.
Bà Lê Thị T1. Thống nhất với phần trình bày của nguyên đơn là bà Trần Thị T. Bà Lê thị T1 thừa nhận do chưa đủ tuổi để làm việc nên có mượn CMND và thông tin của bà Trần Thị T để xin việc làm. Bà Lê Thị T1 chỉ sử dụng CMND và thông tin cá nhân của bà Trần Thị T để làm việc và tham gia BHXH tại Công ty TNHH O trong khoảng thời gian từ 09/2004 đến tháng 03/2005.
Đại diện Viện Kiểm sát
Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ.
Nhận định của Tòa án
Tranh chấp về yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu giữa nguyên đơn là bà Trần Thị T và Công ty TNHH O thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An theo quy định.
Trong quá trình tố tụng, nguyên đơn Trần Thị T thừa nhận không ký hợp đồng lao động và không làm việc tại Công ty TNHH O, mà cho bà Lê Thị T1 mượn CMND và thông tin để ký hợp đồng lao động với Công ty TNHH O từ tháng 9/2004 đến tháng 03/2005. Thực tế, trong khoảng thời gian này Bà Trần Thị T cũng đang làm việc và tham gia BHXH tại Công ty TNHH G.
Việc bà Lê Thị T1 sử dung CMND và thông tin của bà Trần Thị T để ký hợp đồng lao động với Công ty O là hành vi gian dối về mặt chủ thể khi xác lập giao dịch dân sự, vi phạm nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau khi xác định quan hệ lao động theo quy định của pháp luật lao động. Mặc khác, bà Lê Thị T1 thừa nhận do chưa đủ tuổi để ký kết hợp đồng lao động với Công ty TNHH O nên mới mượn CMND và thông tin của bà Trần Thị T để ký kết hợp đồng lao động. Do đó việc bà Trần Thị T yêu cầu vô hiệu hóa hợp đồng lao động đã ký kết là có căn cứ.
Quyết định của Tòa án
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trần Thị T tranh chấp về yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu. Tuyên bố hợp đồng lao động giứ người lao động tên Trần Thị T và Công TY TNHH O trong khoảng thời gian từ tháng 9/2004 đến tháng 03/2005 là vô hiệu. Bà Trần Thị T phải chịu án phí lao động sơ thẩm.
Căn cứ pháp lý
Khoản 5 Điều 32, điểm c khoản Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 68, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 229, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Điều 217, Điều 132 Bộ luật Dân sự 2005. Điều 50 và Điều 190 Bộ luật Lao động 2019.