Bản Án Số 872.2023. DS-PT. Tranh Chấp Đòi Lại Quyền Sử Dụng Đất Cho Ở Nhờ

Vania Van

Bản án số: 872/2023/DS-PT

Nguyên đơn: Ông Phan Văn B. Bà Phan Thị D

Bị đơn: Bà Phan Thị N

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: UBND huyện T, tỉnh Sóc Trăng. Bà Huỳnh Thị L1.

V/v: Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất cho ở nhờ

 

Nội dung vụ án

Nguyên đơn:  Ông Phan Văn B và bà Phan Thị D.

Phần đất có diện tích 32.500m2 , thuộc thửa số 95, tờ bản đồ số 08 (hiện nay là thửa số 62, tờ bản đồ số 06), tọa lạc Ấp N, xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng, có nguồn gốc là của ông Phan Văn B và anh trai là ông Phan Văn N1 tự khai phá vào năm 1975.  Sau đó Nhà nước có chủ trương vô tập đoàn, sau khi xóa bỏ tập đoàn thì Nhà nước cấp lại cho ông N1 và ông B.  Do ông N1 bị bệnh tâm thần không đủ sức khỏe để canh tác, nên ông B đứng ra nhận lại toàn bộ phần đất trên để canh tác và nuôi ông N1 .  Ngày 27 tháng 4 năm 1998, ông B đã được Ủy ban nhân dân huyện Long Phú (nay là huyện T) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.  Năm 2019 ông B và bà D có làm hợp đồng cho bà Phan Thị N mượn 01 phần đất có chiều ngang 05m x chiều dài 10m, tổng diện tích là 50m2 (theo đo đạc thực tế là 64m2 ) cất nhà ở.  Thời hạn là 30 năm từ tháng 10/2019 đến tháng 10/2049.  Năm 2020, bà N dùng cột trụ đá cắm xung quanh đất bao chiếm thêm của ông B, bà D 01 phần đất có chiều ngang 07m x chiều 20m, tổng diện tích 140m2 (theo đo đạc thực tế là 138,1m2 ), cũng thuộc thửa đất trên.  Ông B, bà D kiện yêu cầu buộc bà Phan Thị N phải tháo dỡ, di dời nhà, trả lại cho ông B và bà D phần đất này.

Bị đơn:  Bà Phan Thị N 

Phần đất đang tranh chấp giữa bà N và bà L1 với ông B và bà D thuộc thửa số 95, tờ bản đồ số 08 (thửa mới là thửa số 62, tờ bản đồ số 06), tọa lạc Ấp N, xã T, huyện Long Phú (Nay là huyện T), tỉnh Sóc Trăng có nguồn gốc là của mẹ ruột bà N và ông B là bà Huỳnh Thị L1 tự khai phá từ năm 1973.  Bà L1 canh tác đến năm 1987 thì cho  ông B mượn 01 phần đất khoảng 30.000m2 để canh tác. Phần còn lại thì bà L1 cất nhà ở.  Năm 2018, Bà L1 làm hợp đồng tặng cho bà N 01 phần đất có diện tích 50m2 (ngang 05m x dài 10m), có làm hợp đồng giấy tay.  Năm 2019, bà N đến phần đất trên cất nhà để ở theo sự cho phép của bà L1.  Năm 2020 thì bà L1 chuyển nhượng cho vợ chồng bà Thạch Thị Thúy O và ông Thạch D1 là cháu ngoại và cháu rể của bà L1 01 phần đất nằm cặp nhà bà N đang ở, chiều ngang 07m x dài 20m, tổng diện tích là 140m2 , với giá thỏa thuận là 10.000.000 đồng, hợp đồng làm bằng giấy tay. Bà N thừa nhận bà có dùng trụ đá cặm ranh, khi bà N ra cặm ranh dùm bà L1 thì ông B, bà D phát đơn khởi kiện bà N nói bà mượn đất, chiếm đất của ông B và bà D. Bà N không đồng ý theo yêu cầu của ông B và bà D vì phần đất này bà được mẹ bà hợp đồng cho tặng.  Còn phần đất ngay 07m x 20m bà cũng không chiếm dụng mà mẹ bà là bà L1 chuyển nhượng cho cháu là bà O và ông D nhưng chưa thực hiện.

 

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: UBND huyện T, tỉnh Sóc Trăng. Bà Huỳnh Thị L.

Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Sóc Trăng. Ngày 15/4/1998, xã xác nhận Hồ sơ cấp giấy tên Phan Ngọc B2 là cấp theo: Bản đồ đo đạc năm 1993- 1996; Đơn đăng ký QSD đất và đơn xin điều chỉnh chữ lót “Ngọc” thành “Văn”.  Ngày 27/4/1998 UBND huyện Long Phú (Nay là huyện T) cấp giấy CNQSD đất M 123 293 cho Phan Văn B  trên cơ sở Bản đồ đo đạc năm 1993 – 1996 ông Phan Văn B ( Phan Ngọc B) đang trực canh, Đất có nguồn gốc: đất gốc.  Vì vậy, việc bà L1 yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Phan Văn B là không có cơ sở.

Bà Huỳnh thị L.  Bà Huỳnh Thị L1 thì cho rằng diện tích đất đang tranh chấp có nguồn gốc do bà và ông N1 khai phá.  Sau khi khai phá thì bà canh tác đến năm 1987 thì cho con trai là ông Phan Văn B mượn một phần đất khoảng 30.000m2 để canh tác. Phần còn lại 700m2 là đất giồng bà đã cất nhà ở từ năm 1973 đến nay.

 

Tại đơn yêu cầu độc lập ngày 30/11/2020

Bà Huỳnh Thị L1 yêu cầu ông Phan Văn B và bà Phan Thị D phải trả lại cho bà L1 phần đất có diện tích theo đo đạc thực tế là 706,5m2, là 01 phần trong thửa đất số 95, tờ bản đồ số 08 (hiện nay là thửa số 62, tờ bản đồ số 06), tọa lạc Ấp N, xã T, huyện Long Phú (nay là huyện T), tỉnh Sóc Trăng. Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 123293, do Ủy ban nhân dân huyện Long Phú (nay là huyện T), tỉnh Sóc Trăng cấp cho ông Phan Văn B vào ngày 27 tháng 4 năm 1998.  Đối với yêu cầu của bà Huỳnh Thị L1.  Ông B và bà D không thống nhất vì cho rằng phần đất này do ông B tự khai phá. Nhà nước cũng đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2023/DS-ST ngày 12 tháng 5 năm 2023 của Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn B và bà Phan Thị D.  Buộc bà Phan Thị N và bà Huỳnh Thị L1 phải cùng có trách nhiệm liên đới trả lại cho ông Phan Văn B và bà Phan Thị D 02 phần đất thuộc thửa số 95, tờ bản đồ số 08 (thửa mới là thửa số 62, tờ bản đồ số 06), tọa lạc Ấp N, xã T, huyện Long Phú (Nay là huyện T), tỉnh Sóc Trăng.  Buộc ông Phan Văn B và bà Phan Thị D có trách nhiệm trả cho bà N giá trị căn nhà do bà N xây dựng và các công trình kiến trúc kèm theo theo kết quả thẩm định giá ngày 27/01/2021 là 96.225.194 đồng.  Sau khi thanh toán xong cho bà N số tiền theo kết quả định giá thì ông B và bà D có toàn quyền sở hữu căn nhà.  Buộc bà N có nghĩa vụ di dời các tài sản, vật dụng trong nhà để giao nhà lại cho ông B, bà D.  Không chấp nhận 01 phần yêu cầu độc lập của bà Huỳnh Thị L1 về việc yêu cầu ông Phan Văn B và bà Phan Thị D phải trả lại phần đất cho ông N mượn ở nhờ và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 123293.  Ngày 25/5/2023, bị đơn bà Phan Thị N và bà Huỳnh Thị L1 cùng kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.  

Tại phiên tòa phúc thẩm

Bà Huỳnh Thị L1 và bà Phan Thị N vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng nguồn gốc đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của bà L1, vì bà L1 khai phá từ năm 1973.  Sau khi khai phá bà L1 cất nhà ở từ đó cho đến nay nên UBND cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B là không đúng đối tượng.  Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn cũng như yêu cầu độc lập của bà Huỳnh Thị L1.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh

Hội đồng xét xử và các đương sự đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.  Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét toàn diện, đánh giá đầy đủ các chứng cứ và quyết định phù hợp với quy định của pháp luật. Các đương sự kháng cáo nhưng không cung cấp chứng cứ mới nên không có cơ sở để chấp nhận.  Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bà Huỳnh Thị L1 và bà Phan Thị N và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Nhận định của Tòa án

Về nguồn gốc đất tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu buộc bà Phan Thị N và bà Huỳnh Thị L1 phải trả lại 2 phần đất  cùng thửa số 95, tờ bản đồ số 08 (nay là thửa 62, tờ bản đồ số 06), tọa lạc tại Ấp N, xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng.  Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Huỳnh Thị L1 có yêu cầu độc lập buộc nguyên đơn trả cho bà diện tích 706,5m2 thuộc 1 phần thửa số 95, tờ bản đồ số 08 (nay là thửa 62, tờ bản đồ số 06), tọa lạc tại Ấp N, xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng.  Ông B cho rằng diện tích tranh chấp có nguồn gốc do ông N1 và ông khai phá vào năm 1975. Do ông N1 bị tâm thần nên ông đứng ra nhận lại toàn bộ đất để canh tác.  Đến năm 1998 ông tiến hành kê khai đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà Huỳnh Thị L1 thì cho rằng diện tích đất đang tranh chấp có nguồn gốc do bà và ông N1 khai phá.  Sau khi khai phá, bà L1 canh tác đến năm 1987 thì cho con trai là ông Phan Văn B mượn một phần đất khoảng 30.000m2 để canh tác thủy sản.  Phần còn lại 700m2 là đất giồng bà đã cất nhà ở từ năm 1973 đến nay.  Xét thấy, lời khai của các bên có sự mâu thuẫn về nguồn gốc đất tranh chấp. Tại đơn khởi kiện ngày 04/9/2020 ông B lại thừa nhận diện tích đất 32.500m2 đất là do mẹ ruột là bà Huỳnh Thị L1 cho vào năm 1987, có ông Đinh Bửu L2 làm chứng xác nhận.  Bà Phan Thị D, vợ ông B cũng thừa nhận.  Tòa án sơ thẩm có xác minh tại UBND huyện T về việc cấp GCNQSDĐ cho ông B.  Tòa án sơ thẩm xác minh thu thập chứng cứ không đầy đủ về nguồn gốc đất nhưng lại nhận định đất tranh chấp có nguồn gốc của ông B và ông N1 khai phá là chưa đủ cơ sở.  Chưa cho đối chất làm rõ những mâu thuẫn trong lời khai của các bên đương sự, người làm chứng nên chưa đủ cơ sở để chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn hay yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

 

Quyết định của Tòa án

Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Phan Thị N và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Huỳnh Thị L1.  Huỷ toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 22/2023/DS-ST ngày 12 tháng 5 năm 2023 của Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng.  Chuyển toàn bộ hồ sơ về cho Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng giải quyết lại theo thủ tục chung.

 

Cơ sở pháp lý

Căn cứ khoản 3 Điều 308; Khoản 3 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự.