Giảm nhẹ Trách nhiệm Hình sự cho Người Nước ngoài

Stephen Le

Pháp luật hình sự Việt Nam có nhiều biện pháp khoan hồng với người phạm tội. Một trong số đó là quy định về giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Mọi biện pháp khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội là công bằng như nhau, không phân biệt người phạm tội là ai, quốc tịch nào. Tuy nhiên, việc chứng minh để bị can, bị cáo là người nước ngoài được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trên thực tế gặp không ít khó khăn.

Giảm nhẹ Trách nhiệm Hình sự trong những Trường hợp nào?

Người phạm tội được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi thuộc một trong các trường hợp sau:

  • Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
  • Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
  • Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
  • Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
  • Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
  • Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
  • Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
  • Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
  • Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
  • Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
  • Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
  • Phạm tội do lạc hậu;
  • Người phạm tội là phụ nữ có thai;
  • Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
  • Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
  • Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
  • Người phạm tội tự thú;
  • Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
  • Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
  • Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
  • Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
  • Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
  • Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ.

Như vậy, có rất nhiều căn cứ để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Ngoài các trường hợp cụ thể thì pháp luật còn cho phép thêm ‘tình tiết khác’ được Tòa án cân nhắc chấp nhận là tình tiết giảm nhẹ khi tuyên phạt. Hiện không có quy định pháp luật nào hướng dẫn cụ thể về ‘tình tiết khác’ là như thế nào. Tuy nhiên, tại Công văn số 212/ TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của Tòa án Nhân dân Tối cao về việc Thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử có giải đáp rằng, trong quá trình xét xử, Tòa án có thể tham khảo quy định tại Điểm c Mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của Bộ luật Hình sự năm 1999 để xác định ‘tình tiết khác’ như:

  • Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, bà mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước;
  • Bị cáo có anh, chị, em ruột là liệt sỹ;
  • Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên;
  • Người bị hại cũng có lỗi;
  • Thiệt hại do lỗi của người thứ ba;
  • Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo;
  • Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khoẻ của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản;
  • Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu.

Ngoài ra, khi xét xử, tùy từng trường hợp và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà Tòa án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ nhưng phải ghi rõ trong bản án. Việc chứng minh để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không phải nghĩa vụ mà là quyền của bị can, bị cáo. Nếu chủ động chứng minh được các tình tiết giảm nhẹ thì sẽ có lợi hơn cho bị cáo, vì ở góc độ của Cơ quan tiến hành tố tụng, việc tiếp cận và thu thập tài liệu, chứng cứ để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo ít nhiều cũng bị hạn chế vì chủ yếu đây là tài liệu liên quan đến nhân thân người phạm tội. Nếu bị can, bị cáo có từ 2 tình tiết giảm nhẹ trở lên (không tính ‘tình tiết khác’) thì có thể được Tòa án quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.

Khó khăn đối với Người Nước ngoài Phạm tội

Phần lớn người nước ngoài đến Việt Nam với nhiều mục đích khác nhau như đầu tư, kinh doanh, học tập, du lịch, v.v., thường không có người thân tại Việt Nam hoặc nếu có thì cũng không nhiều. Khi vướng vào thủ tục tố tụng hình sự, đặc biệt là bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam thì sẽ không nhận được nhiều sự hỗ trợ, giúp đỡ từ gia đình, người thân, bạn bè như người bản địa.

Việc chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở nên khó khăn vì bất đồng ngôn ngữ và mức độ am hiểu pháp luật Việt Nam của người nước ngoài rất hạn chế. Người nước ngoài không biết trường hợp nào sẽ được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để có thể chủ động thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử để giảm nhẹ hình phạt cho bản thân.

Một số trường hợp, cần phải liên hệ, trao đổi với bị hại để bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả mà bị can, bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam không thể thực hiện được, bắt buộc phải có sự trợ giúp từ bên ngoài.

Một số tài liệu có thể chứng minh bị can, bị cáo có tình tiết giảm nhẹ được cấp bởi nước ngoài phải được hợp pháp hóa lãnh sự mới được công nhận tính pháp lý tại Việt Nam. Vấn đề này mất nhiều thời gian và thường không khả thi nếu bị can, bị cáo bị tạm giữ, tạm giam mà bên ngoài không có người hỗ trợ.

Giải pháp nào cho Người Nước ngoài?

Yêu cầu Luật sư bào chữa là giải pháp hữu hiệu nhất. Luật sư sẽ chủ động xác định các tình tiết giảm nhẹ có khả năng được áp dụng và thu thập, trình nộp tài liệu, chứng cứ hợp pháp để chứng minh với Cơ quan tiến hành tố tụng. Luật sư có thể đề nghị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án lưu ý xem xét nhiều nhất các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho thân chủ. Trong những trường hợp bị can, bị cáo không có người thân ở Việt Nam, Luật sư có khả năng hỗ trợ bị cáo tiếp xúc, trao đổi với bị hại để bồi thường thiệt hại và khắc phục hậu quả theo nguyện vọng của bị can, bị cáo.

Yêu cầu sự giúp đỡ từ đại sứ quán, lãnh sự quán của nước mình tại Việt Nam.

Đề nghị người thân, bạn bè tại Việt Nam và người thân ở nước ngoài giúp đỡ, phối hợp chuẩn bị các tài liệu hợp pháp để được Cơ quan tiến hành tố tụng Việt Nam xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Bài viết này chứa đựng kiến thức pháp luật và thuật ngữ chuyên môn, quý độc giả quan tâm về trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với người nước ngoài theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam, vui lòng liên hệ với các Luật sư Hình sự của chúng tôi tại info@letranlaw.com.