Hành Vi Tham Ô Trong Quản Lý Tài Sản Doanh Nghiệp
Cùng với quá trình phát triển của đất nước, vấn đề phòng chống tham nhũng luôn được quan tâm, chú trọng, đặt ra yêu cầu xử lý nghiêm với nhóm các hành vi nói trên. Điều này đã thể hiện rõ trong việc xây dựng, ban hành và thực thi Pháp luật liên quan đến xử lý tội phạm về tham nhũng. Trước đây, luật hình sự chỉ quy định các tội phạm tham nhũng trong các Cơ quan, Tổ chức, Doanh nghiệp Nhà nước và người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn trong các Cơ quan, Tổ chức này. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, đã mở rộng một số tội phạm liên quan đến tham nhũng trong lĩnh vực tư nhân, điển hình là tội Tham ô tài sản, được quy định tại Điều 353 Bộ luật hình sự.
Tham ô tài sản là gì?
Theo quy định tại Điều 353 Bộ luật hình sự, Tham ô tài sản được hiểu là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để chiếm đoạt tài sản mà họ có trách nhiệm quản lý.
Cấu thành của tội Tham ô tài sản:
Chủ thể
Chủ thể của tội tham ô tài sản được xem là một dạng chủ thể đặc biệt, vì ngoài các dấu hiệu về năng lực trách nhiệm hình sự, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thì người này phải có chức vụ, quyền hạn.
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 352 Bộ luật hình sự: Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ.
Chức vụ, quyền hạn quy định tại tội Tham ô tài sản không chỉ mang tính chất quyền lực nhà nước, trong các cơ quan nhà nước mà nó còn được hiểu rộng ra là những người có quyền quản lý đối với tài sản, trong tất cả các Cơ quan, Tổ chức, Doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong vụ án có đồng phạm, những người không có chức vụ, quyền hạn vẫn có thể phạm tội này với vai trò là người tổ chức, người giúp sức hoặc người xúi giục.
Khách thể
Khách thể của tội Tham ô tài sản là những quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động đúng đắn của các Cơ quan, Tổ chức, Doanh nghiệp, trong và ngoài nhà nước bị xâm phạm; làm cho Cơ quan, Tổ chức, Doanh nghiệp này bị suy yếu, mất uy tín; đồng thời, tội Tham ô tài sản còn xâm phạm quyền sở hữu tài sản của các Cơ quan, Tổ chức, Doanh nghiệp.
Mặt chủ quan
Tội tham ô tài sản được thực hiện với lỗi cố ý, động cơ, mục đích là vì vụ lợi, nhằm biến tài sản của Cơ quan, Tổ chức, Doanh nghiệp thành tài sản riêng.
Mặt khách quan
Dấu hiệu khách quan của tội tham ô tài sản thể hiện ở hành vi chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý thông qua việc lợi dụng chức vụ quyền hạn. Hành vi chiếm đoạt tài sản và thủ đoạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn có mối quan hệ mật thiết với nhau; thủ đoạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong quản lý tài sản tạo điều kiện cho hành vi chiếm đoạt.
Về hậu quả, tài sản bị chiếm đoạt phải có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên, hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1, Chương XXIII Bộ luật hình sự chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì phạm tội Tham ô tài sản.
Tham ô trong quản lý tài sản Doanh nghiệp
Quản lý tài sản là vấn đề quan trọng bên cạnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh tạo ra nguồn thu nhập cho Doanh nghiệp. Đồng thời, đây cũng là hoạt động thường xuyên xảy ra vi phạm. Xuất phát từ vị trí công việc, nhiệm vụ được giao, những người có chức vụ, quyền hạn như Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc, Kế toán trưởng, Kế toán, Thủ quỹ, Nhân viên… có thể lợi dụng để chiếm đoạt tài sản của Doanh nghiệp do mình có trách nhiệm quản lý.
Trách nhiệm quản lý đối với tài sản gắn với từng cá nhân được xác định theo Luật, hoặc thể hiện trong các văn bản, quy định, quy trình, phân công nhiệm vụ của từng Doanh nghiệp, hoặc được xác định thông qua việc phân công miệng nhưng được các bên thừa nhận và xác lập trách nhiệm đối với phạm vi công việc mà họ được giao.
Trong Doanh nghiệp, hành vi tham ô thường xảy ra ở các vị trí, bộ phận sau:
Đối với chủ Doanh nghiệp, người lãnh đạo, quản lý điều hành Doanh nghiệp
Những cá nhân này thường có quyền quản lý đối với mọi hoạt động và tài sản của Doanh nghiệp.
- Đối với chủ Doanh nghiệp: do có sự nhận thức không đúng, không có sự phân biệt giữa tài sản thuộc sở hữu của Doanh nghiệp (Pháp nhân) và tài sản cá nhân, cho rằng tài sản của Doanh nghiệp là tài sản của mình góp vào nên đã tự ý sử dụng tài sản của Doanh nghiệp vào việc riêng như chỉ đạo Kế toán, Thủ quỹ xuất tiền, lấy tài sản của Doanh nghiệp do mình quản lý để sử dụng vào việc cá nhân. Hành vi này có thể cấu thành tội Tham ô tài sản, do đây là tài sản của Pháp nhân, mọi việc thu chi phải theo quy định Pháp luật và quy định của Doanh nghiệp.
- Đối với người lãnh đạo, quản lý, điều hành doanh nghiệp mà không phải là chủ sở hữu Doanh nghiệp: những người này có thể được chủ Doanh nghiệp thuê theo Hợp đồng hoặc hình thức khác để thay mặt chủ Doanh nghiệp quản lý trong đó có tài sản. Họ có thể lợi dụng quyền hạn của mình để chiếm đoạt tài sản như: tự ý lấy tài sản của Doanh nghiệp, chỉ đạo bộ phận Kế toán, Thủ quỹ lập chứng từ kế toán giả hoặc tự đưa chứng từ giả vào để chiếm đoạt tiền của Doanh nghiệp.
Đối với các vị trí được giao trực tiếp quản lý tài sản như Kế toán trưởng, Kế toán, Thủ quỹ
Đây là các vị trí dễ phát sinh hành vi Tham ô do họ dễ dàng tiếp cận đến tài sản của Doanh nghiệp thông qua nhiệm vụ được giao nên có điều kiện lợi dụng việc này để chiếm đoạt tài sản của Doanh nghiệp. Hành vi này có thể thực hiện công khai, lén lút, gian dối trong giả mạo hồ sơ, chứng từ để lấy tài sản do họ có trách nhiệm quản lý.
Ngoài các cá nhân trên, bất kỳ nhân viên nào khác có hành vi chiếm đoạt đối với tài sản được giao trực tiếp quản lý cũng có thể bị xử lý về Tội tham ô tài sản, ví dụ: Nhân viên lấy hàng hóa, tài sản được Doanh nghiệp giao quản lý trực tiếp, nhân viên được giao nhiệm vụ thu tiền khách hàng nhưng sau đó không nộp về Công ty mà chiếm đoạt số tiền này…
Mặt khác, người có chức vụ, quyền hạn trong Doanh nghiệp thực hiện hành vi chiếm đoạt nhưng tài sản không thuộc trách nhiệm quản lý của họ thì không phạm tội Tham ô tài sản mà sẽ bị xử lý về các tội danh tương ứng như: Trộm cắp tài sản, Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản…
Về trách nhiệm liên quan khi xảy ra hành vi Tham ô trong Doanh nghiệp
Để chiếm đoạt được tài sản mà không bị phát hiện, bên cạnh việc lợi dụng nhiệm vụ được giao, các cá nhân này thường lợi dụng các sơ hở trong quy trình, quy định, sự tắc trách, tin tưởng, nể nang trong việc kiểm tra của các cá nhân liên quan. Do đó, khi Doanh nghiệp xảy ra hành vi Tham ô và bị xử lý về mặt hình sự, thông thường trách nhiệm của các cá nhân liên quan khác trong việc quản lý tài sản cũng bị các Cơ quan tiến hành tố tụng xem xét để xác định có đồng phạm hay không, có phạm các tội khác như: Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng; Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí; Vi phạm quy định của Nhà nước về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng… hoặc vi phạm pháp luật khác hay không, để xử lý theo quy định.
Như vậy, hành vi Tham ô xâm phạm trực tiếp đến hoạt động đúng đắn cũng như tài sản Doanh nghiệp. Đồng thời, chế tài đối với tội Tham ô tài sản cũng rất nặng, theo quy định tại Điều 353 Bộ luật hình sự, hình phạt đối với Tội phạm này tùy theo mức độ mà có thể bị xử phạt từ 2 năm tù đến tử hình. Do đó, Doanh nghiệp và cá nhân có chức vụ, quyền hạn cần chủ động phòng ngừa hành vi Tham ô bằng cách nâng cao nhận thức pháp luật; đề cao ý thức trách nhiệm trong công việc; xây dựng quy định, quy trình chặt chẽ trong quản lý tài sản; lựa chọn bố trí nhân sự quản lý tài sản phù hợp… để đảm bảo hoạt động kinh doanh, tránh thiệt hại xảy ra.
Đừng quên theo dõi và cập nhật thêm nhiều thông tin hữu ích khác trên trang web của chúng tôi. Hãy liên hệ với chúng tôi để được hướng dẫn chi tiết hơn: info@letranlaw.com.