Tóm Tắt Bản Án Số: 121/2022/HS-ST: Vi phạm quy định khi khám chữa bệnh tại nhà không phép gây thiệt hại tính mạng người khác

Vania Van

Bản án số: 121/2022/HS-ST

Bị cáo:  Trần Hữu P – Trần Thanh T

Bị hại:  Phùng Văn H.(Đã chết)

V/v Vi phạm quy định khi khám chữa bệnh tại nhà không phép gây thiệt hại tính mạng người khác 

 

Nội dung vụ việc

Năm 2017, ông Phùng Văn H đến nhờ Trần Hữu P khám chữa vết thương bàn chân phải bị nhiễm trùng. Trần Hữu P là nhân viên y tế cộng đồng thuộc quản lý của Ủy ban nhân dân xã Tân Hội, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.  Theo quy định của pháp luật, P không được cấp phép mở cơ sở y tế, nhưng P đã khám bệnh, bán thuốc, tiêm thuốc cho nhiều người dân tại nhà riêng. 

Ngày 21-5-2022, vết thương cũ tái phát, ông H đến nhà của P để điều trị.  Sau khi P thăm khám, chỉ dịnh tiêm thuốc kháng sinh cho ông H.  Lúc này, Trần Thanh T – con của P, là bác sĩ đang ở đó hỏi thăm tình trạng bệnh của ông H.  P cho biết đã tiêm 04 lần kháng sinh Rovajec Ceftriaxon cho ông H nhưng vẫn không khỏi.  T yêu cầu ông H tháo băng ra để T kiểm tra vết thương.  Ông H không chịu, chỉ mô tả vết thương bị chảy nước vàng.  T kêu P test thử phản ứng thuốc kháng sinh Rovajec Ceftriaxon cho ông H trước khi tiêm.  P test thử thuốc, ông H không có phản ứng bất thường nào.  P tiến hành tiêm thuốc kháng sinh Rovajec Ceftriaxon vào tĩnh mạch cho ông H. Khoảng 10 phút sau, ông H có triệu chứng mệt, khó thở, P dùng thuốc giảm sốc Adrenalin tiêm 01 ống cho ông H, nhưng ông H bị hôn mê, sùi bọt mép, người tím tái và chuyển biến xấu nên P gọi T đến xem. T thấy ông H có triệu chứng sốc thuốc nên kêu chở ông H đến Trạm y tế xã Tân Hội để cấp cứu.  Trạm y tế xã Tân Hội xử lý sơ cứu và tiếp tục chuyển ông H đến Trung tâm y tế huyện Tân Châu,  nhưng ông H đã tử vong.  

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.  Trần Hữu P và Trần Thanh T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, tự nguyện bồi thường cho người đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 80.000.000 đồng để khắc phục hậu quả. 

Kết luận giám định pháp y về tử thi số 607/KL-KTHS ngày 17-6-2022 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Tây Ninh.  Nguyên nhân chết của ông Phùng Văn H là sốc phản vệ do sử dụng thuốc kháng sinh Ceftriaxon. 

Kết luận giám định pháp y về hoá pháp số 202/280/297/22/ĐC ngày 27-5- 2022 của Phân viện Pháp y Quốc gia tại Thành phố Hồ Chí Minh.  Trong mẫu phủ tạng, nước tiểu và máu của ông Phùng Văn H tìm thấy Ceftriaxon.  Không tìm thấy các chất độc khác. 

Bản Kết luận giám định pháp y về mô bệnh học số 11TN/22 ngày 26-5-2022 của Bệnh viện Quân y 175.  Hình ảnh phù nề, sung huyết ở các tạng qua các mẫu ghi thu. 

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.  Đề nghị truy tố các bị cáo Trần Hữu P và Tranh Thanh T về tội danh “Vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh”.  Cấm bị cáo Trần Hữu P làm nhân viên y tế cộng đồng, thời hạn từ 24 tháng đến 30 tháng.  Cấm bị cáo Trần Thanh T hành nghề bác sĩ, thời hạn từ 24 tháng đến 30 tháng.  Đề nghị Hội đồng xét xử  tịch thu tiêu hủy vật chứng không còn giá trị sử dụng theo quy định của pháp luật.
 

Nhận định của Tòa án

Trần Hữu P và Trần Thanh T là người đã thành niên, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Trần Hữu P là người không có giấy phép hoạt động khám bệnh, chữa bệnh tại nhà.  Trần Thanh T là bác sĩ không có giấy phép hoạt động khám bệnh, chữa bệnh ngoài giờ.  Cả hai đã cùng thực hiện hành vi khám bệnh, chữa bệnh và tiêm thuốc kháng sinh cho ông Phùng Văn H, khiến ông H tử vong vì sốc phản vệ do sử dụng thuốc kháng sinh Ceftriaxon.  Đã đủ cơ sở kết luận các bị cáo Trần Hữu P và Trần Thanh T phạm tội “Vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh” theo điểm a, Khoản 1 Điều 315 Bộ luật Hình sự.  

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến hoạt động quản lý hành chính trong lĩnh vực y tế của cơ quan Nhà nước, gây thiệt hại về tính mạng cho người khác.  Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải,bồi thường thiệt hại, người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt nên các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định.  

Ngoài ra, bị cáo P là người phạm tội trên 70 tuổi (71 tuổi) và có công với cách mạng, bị cáo T là người có thành tích xuất sắc trong công tác, có cha là người có công với cách mạng nên các bị cáo được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định của Bộ luật Hình sự. 

Vụ án có tính chất nghiêm trọng và đồng phạm giản đơn.  Bị cáo P là người trực tiếp tiêm thuốc kháng sinh Rovajec Ceftriaxon dẫn đến bị hại tử vong.  Bị cáo T tuy không trực tiếp tiêm thuốc kháng sinh cho bị hại nhưng có hành vi khám bệnh, thể hiện vai trò giúp sức cho bị cáo P.  Xét thấy bị cáo P thực hiện hành vi phạm tội nghiêm trọng hơn bị cáo T, nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hơn, nên các bị cáo chịu trách nhiệm hình sự bằng nhau.  

Về hình phạt bổ sung. Cấm bị cáo P làm nhân viên y tế cộng đồng thời hạn 02 năm. Cấm bị cáo T hành nghề bác sĩ thời hạn 02 năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Ghi nhận việc các bị cáo đã bồi thường cho cho gia đình người bị hại 80.000.000 đồng. Tịch thu tiêu hủy cuốn sổ ghi chép chứa nội dung khám bệnh của Trần Hữu P cùng các ống thuốc là vật chứng không còn giá trị sử dụng. 


Quyết định của Tòa án

Xử phạt bị cáo Trần Hữu P và bị cáo Trần Thanh T mỗi người  01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh”.  Thời gian thử thách 02 (hai) năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.  Giao các bị cáo Trần Hữu P và TrầnThanh T cho Ủy ban Nhân dân xã Tân Hội, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.  Cấm các bị cáo Trần Hữu P làm nhân viên y tế cộng đồng, Trần Thanh T hành nghề bác sĩ thời hạn 02 năm. Người đại diện hợp pháp của bị hại đã nhận của các bị cáo Trần Hữu P và Trần Thanh T số tiền 80.000.000 đồng và không yêu cầu bồi thường gì thêm. Bị cáo Trần Thanh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Trần Hữu P niễn nộp tiền án phí theo quy định dành cho người cao tuổi.  

 

Căn cứ pháp lý 

Điểm a, Khoản 1, Khoản 4 Điều 315;  Điều 47; Điểm b, o, s, x Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Điều 106;  Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự.  Điểm đ, Khoản 1, Điều 12 và Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14,