Khởi tố Bị can đối với Pháp nhân Thương mại – Góc nhìn từ Vụ án SABECO

Stephen Le

Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 của Quốc Hội Khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015 1 (Bộ luật Hình sự năm 2015) đã có một bước tiến mới trong tư duy lập pháp hình sự trong việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại (PNTM). Điều này đã đặt ra nhiều vấn đề pháp lý và tranh cãi xoay quanh việc áp dụng tội danh và xác định hình phạt đối với PNTM và trách nhiệm pháp lý đối với người đại diện theo pháp luật của PNTM. 

Sự cần thiết Truy cứu Trách nhiệm Hình sự đối với Pháp nhân Thương mại

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều công ước quốc tế về phòng, chống tội phạm, đòi hỏi Việt Nam phải bổ sung trách nhiệm hình sự của PNTM để phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tại Việt Nam, tình hình vi phạm pháp luật của các PNTM diễn ra khá phổ biến, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế – xã hội, có xu hướng gia tăng cả về số lượng, tính chất, mức độ và hậu quả. Biện pháp xử phạt vi phạm hành chính tuy đã được điều chỉnh tăng mức phạt cao hơn so với trước kia, nhưng cũng không đủ sức răn đe. Vì vậy, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với PNTM được cho là biện pháp hiệu quả đủ sức răn đe, phòng ngừa các tội phạm do PNTM gây ra.

Trên thực tế, hoạt động quản lý của các doanh nghiệp không chỉ được quyết định bởi cá nhân Giám đốc hoặc người điều hành doanh nghiệp, mà trong nhiều trường hợp, các quyết định đưa ra (bao gồm cả những quyết định vi phạm) trên cơ sở bàn bạc, biểu quyết tập thể. Vì vậy, nếu chỉ buộc một số cá nhân chịu trách nhiệm hình sự trong khi việc biểu quyết theo Hội đồng và cả tập thể được hưởng lợi là thiếu công bằng.

Bên cạnh đó, việc quy định trách nhiệm hình sự của PNTM còn có ý nghĩa trong việc chuyển trách nhiệm chứng minh từ cá nhân người bị thiệt hại sang trách nhiệm chứng minh của Nhà nước – chủ thể thay mặt người dân trong việc buộc pháp nhân phải bồi thường thiệt hại.

Từ những lý do trên, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định trách nhiệm hình sự của PNTM là phù hợp với thực tiễn và lý luận. Tuy nhiên, việc vận dụng các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 để xử lý PNTM trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn, bất cập thể hiện rõ ràng nhất là cho đến thời điểm hiện nay, trên cả nước chỉ 02 Quyết định khởi tố bị can đối với PNTM phạm tội 2. Vấn đề này cũng đã được đưa ra thảo luận, chất vấn tại nghị trường Quốc Hội.

Pháp nhân Thương mại bị Khởi tố Bị can khi nào?

Theo quy định tại Điều 74, Điều 76 Bộ luật Hình sự năm 2015 có thể khẳng định không phải mọi pháp nhân đều trở thành tội phạm mà chỉ có PNTM phạm tội mới bị xem là tội phạm. PNTM là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên 3. Như vậy, doanh nghiệp và tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân tại Việt Nam là pháp nhân có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 

PNTM chỉ chịu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn các điều kiện: (i) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh PNTM; (ii) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của PNTM; (iii) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của PNTM; (iv) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy, PNTM chỉ chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh và vì lợi ích của PNTM, dưới sự điều hành, chấp thuận của chính PNTM đó.

PNTM chỉ chịu trách nhiệm hình sự khi có hành vi phạm tội cấu thành một trong 33 tội danh được quy định cụ thể tại Điều 76 Bộ luật Hình sự năm 2015. Các loại tội phạm này có thể chia làm 3 nhóm: (i) nhóm các tội phạm trong lĩnh vực kinh tế như tội ‘Buôn lậu’; ‘Vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới’; ‘Sản xuất, buôn bán hàng cấm’; ‘Trốn thuế’; ‘Đầu cơ’; ‘Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp‘; … (ii) nhóm các tội phạm trong lĩnh vực môi trường như tội ‘Gây ô nhiễm môi trường’; ‘Vi phạm phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường’; ‘Đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam’; (iii) nhóm các tội phạm trong lĩnh vực an toàn công cộng như tội ‘Tài trợ khủng bố’; ‘Rửa tiền’.

Ví dụ điển hình về việc Khởi tố Bị can đối với Pháp nhân Thương mại

Nội dung vụ án

Theo điều tra, Công ty Cổ phần Tập đoàn Bia Sài Gòn Việt Nam (Công ty Bia Sài Gòn Việt Nam) ký hợp đồng hợp tác sản xuất nhãn hiệu bia ‘Sai Gon Viet Nam’ với Công ty BiVa. Theo đó, Công ty BiVa chỉ được sản xuất bia ‘Sai Gon Viet Nam’ với nhãn hiệu và chất lượng do Công ty Bia Sài Gòn Việt Nam cung cấp.

Tháng 6/2020, Công ty BiVa đã sản xuất và bán cho Công ty Bia Sài Gòn Việt Nam 4.200 thùng bia nhãn hiệu ‘Sai Gon Viet Nam’, thu về hơn 365 triệu đồng. Công ty Bia Sài Gòn Việt Nam đã bán 3.300 thùng bia cho khách hàng, thu về hơn 578 triệu đồng, số còn lại được làm quà tặng để quảng bá.

Ngày 23/6/2020, Cục Quản lý thị trường Bà Rịa – Vũng Tàu đã kiểm tra cơ sở sản xuất của Công ty BiVa, địa chỉ Ấp Bắc 2, Xã Hòa Long, Thành phố Bà Rịa, Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu do ông Vũ Tuấn Châu làm chủ cơ sở phát hiện 4.712 thùng bia Sài Gòn (BIA SAIGON VIETNAM) thành phẩm, 116.700 vỏ lon bia (loại 330ml) và 3.300 vỏ thùng bia (thùng giấy carton).

Cục Sở hữu Trí tuệ xác định lượng hàng hóa được gia công nêu trên trên có kiểu dáng, nhãn hiệu sản phẩm có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa đối với nhãn hiệu BIA SÀI GÒN đã được bảo hộ, thuộc sở hữu của Tổng Công ty Cổ phần Bia – Rượu – Nước giải khát Sài Gòn (SABECO).

Kết quả giám định cho thấy sản phẩm bia ‘Sai Gon Viet Nam’ do Công ty Bia Sài Gòn Việt Nam thuê Công ty BiVa sản xuất có nhãn hiệu trùng và tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được bảo hộ của SABECO.

Cơ quan điều tra đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can đối với Công ty Bia Sài Gòn Việt Nam về tội ‘Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp’ quy định tại Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Vấn đề pháp lý phát sinh từ góc nhìn vụ án

Hành vi tương tự như hành vi của Công ty Bia Sài Gòn Việt Nam ở Việt Nam xảy ra rất thường xuyên, tuy nhiên đa số các hành vi tương tự chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính bởi khó khăn trong việc xác định lỗi, khó khăn trong việc xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với PNTM. Từ vụ án ‘Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp’ của SABECO cho thấy Cơ quan Cảnh sát điều tra chỉ ra khởi tố bị can đối với PNTM là Công ty Bia Sài Gòn Việt Nam mà không khởi tố cá nhân có liên quan như người đại diện theo pháp luật của Công ty. Việc không khởi tố cá nhân có liên quan theo tác giả là do cơ quan tiến hành tố tụng lo lắng trong việc một hành vi phạm tội có thể sẽ bị xử lý 2 lần nếu vừa khởi tố cá nhân, vừa khởi tố pháp nhân. Tuy nhiên, việc các cơ quan tiến hành tố tụng không khởi tố cá nhân thực hiện hành vi phạm tội thì không thể xác định được lỗi của pháp nhân vì suy cho cùng PNTM không thể tự thực hiện hành vi phạm tội. Trong vụ án này cũng chưa rõ Cơ quan điều tra chứng minh lỗi của PNTM dựa vào đâu? Vì vụ án vừa mới xảy ra nên không đặt ra yêu cầu xác định thời hiệu nhưng nếu phải xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với PNTM thì chắc có lẽ Cơ quan điều tra cũng không có căn cứ để xác định.

Sau đây tác giả sẽ phân tích một số quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về trách nhiệm hình sự của PNTM để hiểu rõ khó khăn trong việc khởi tố PNTM.

Những Khó khăn khi Truy cứu Trách nhiệm Hình sự Pháp nhân Thương mại

Dưới góc độ pháp lý, PNTM là một thực thể pháp lý độc lập, có đầy đủ năng lực để thực hiện các hành vi pháp lý và giao dịch nhân danh chính mình. Do đó, PNTM phải tự chịu trách nhiệm hình sự là hoàn toàn có cơ sở. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, để xác định trách nhiệm hình sự của PNTM cần phải chứng minh lỗi của pháp nhân. Trong khi đó, PNTM không thể tự thực hiện hành vi mà mọi hành vi của pháp nhân thương mại đều được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật, đại diện theo ủy quyền hoặc chủ sở hữu pháp nhân. Việc hiểu và tách bạch trách nhiệm pháp lý của cá nhân và PNTM hiện nay chưa rõ ràng. Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội […] do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc PNTM thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm […]”. Như vậy, có thể hiểu chủ thể của tội phạm ngoài cá nhân còn có PNTM. Quy định này lại mâu thuẫn với quy định tại Khoản 1 Điều 75 Bộ luật Hình sự năm 2015, điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại là ‘hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh PNTM’; có thể hiểu PNTM không phải là chủ thể trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội mà vẫn do cá nhân nhân danh PNTM trực tiếp thực hiện; hay nói cách khác, chủ thể của tội phạm vẫn là cá nhân.

Theo ý kiến tác giả, nếu muốn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với PNTM trước tiên chúng ta cần hiểu rõ việc quy định trách nhiệm hình sự của PNTM không làm phát sinh loại tội phạm thứ hai do PNTM thực hiện, mà chỉ có duy nhất một chủ thể của tội phạm – đó là cá nhân phạm tội và hai chủ thể của trách nhiệm hình sự – đó là cá nhân và PNTM. Vì tội phạm do cá nhân (hoặc nhóm cá nhân) thực hiện và cá nhân này (hoặc nhóm cá nhân này) thực hiện nhân danh PNTM, vì lợi ích của PNTM, dưới sự chỉ đạo điều hành của PNTM, do đó, PNTM phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi do cá nhân (hoặc nhóm cá nhân) đã thực hiện. Bản chất của việc quy định trách nhiệm hình sự của PNTM chỉ là việc bổ sung chủ thể thứ hai phải chịu trách nhiệm hình sự bên cạnh chủ thể là cá nhân về cùng một hành vi phạm tội do cá nhân thực hiện. Cách hiểu này cũng phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 75 Bộ luật Hình sự năm 2015 rằng “Việc PNTM chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân”. Như vậy, Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 cần sửa đổi lại theo hướng chỉ có cá nhân mới là chủ thể của tội phạm.

Ngoài ra, quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự của PNTM cũng chưa rõ ràng và không thể áp dụng. Khoản 2 Điều 9 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định phân loại tội phạm do PNTM thực hiện áp dụng theo quy định phân loại tội phạm do cá nhân thực hiện. Việc phân loại tội phạm do cá nhân thực hiện căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt (trong đó bao gồm các hình phạt: hình phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù, tù chung thân, tử hình). Tuy nhiên, các hình phạt này không được áp dụng đối với PNTM phạm tội, trừ hình phạt tiền là hình phạt được áp dụng chung cho cả cá nhân và PNTM. Vì vậy, nếu khung hình phạt áp dụng cho PNTM chỉ quy định về phạt tiền thì sẽ xác định PNTM phạm tội ít nghiêm trọng. Tuy nhiên, trong trường hợp PNTM bị áp dụng khung hình phạt có quy định đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động vĩnh viễn thì không phân loại tội phạm được. Do đó, không có căn cứ để xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của PNTM. 

Bài viết này chứa đựng kiến thức pháp luật và thuật ngữ chuyên môn, quý đọc giả có thắc mắc hoặc cần trao đổi về chuyên môn liên quan đến các tội phạm hình sự hoặc khởi tố bị can đối với pháp nhân thương mại, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại theo quy định Bộ luật Hình sự Việt Nam, vui lòng liên hệ các Luật sư Hình sự của chúng tôi tại info@letranlaw.com.


  1. Đã được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 của Quốc hội Khóa XIV, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/06/2017, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018.
  2. Công ty Cổ phần Nhôm Việt Pháp – Nhà máy Nhôm Việt Pháp do Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Tỉnh Phú Thọ khởi tố; Công ty Cổ phần Tập đoàn Bia Sài Gòn Việt Nam do Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu khởi tố.
  3. Theo Điều 75 Bộ luật Dân sự 91/2015/QH13 Quốc hội Khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015.