QĐ Số 08/2021/QĐ-PQTT V/v Yêu Cầu Hủy PQTT Do Việc Thương Thảo Hợp Đồng Không Hoàn Thành
Quyết định số: 08/2021/QĐ-PQTT
Bên yêu cầu: Công ty TNHH HTK
Bên liên quan: TĐ ĐL
V/v: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài do việc thương thảo hợp đồng không hoàn thành
Nội dung vụ việc
Ngày 12/12/2018, TĐ ĐL phát hành hồ sơ mời thầu gói thầu số 11 nội dung mua sắm than nhập khẩu cho chạy thử nghiệm và vận hành nhà máy nhiệt điện VT 4 mở rộng. Công ty HTK được Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam ban hành bảo lãnh dự thầu với giá trị bảo lãnh là 11.200.000.000 đồng và trúng thầu. Ngày 14/4/2019, TĐ ĐL gửi email cho Công ty HTK dự thảo hợp đồng cung cấp than, theo đó kế hoạch giao hàng vẫn giữ nguyên như trong hồ sơ mời thầu. Tuy nhiên, sau nhiều lần gặp gỡ các bên không thống nhất được kế hoạch giao hàng nên hai bên đã dừng thương thảo hợp đồng.
Ngày 23/5/2019, Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam gửi công văn tới Công ty HTK với nội dung TĐ ĐL khiếu nại việc Công ty HTK vi phạm việc hoàn thiện hợp đồng, đồng thời đề nghị Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam chuyển tiền bảo lãnh dự thầu cho TĐ ĐL. Công ty HTK nhiều lần gửi văn bản phản đối khiếu nại của TĐ ĐL. Ngày 18/6/2019 TĐ ĐL gửi thông báo kết quả đấu thầu gói thầu số 11 cho Công ty HTK. Ngày 8/10/2019 Công ty HTK gửi công văn cho TĐ ĐL thể hiện ý kiến về bảo lãnh dự thầu đồng thời đề nghị TĐ ĐL có ý kiến phản hồi, nếu TĐ ĐL không có ý kiến phản hồi trước 11/10/2019 thì Công ty HTK sẽ khởi kiện tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam.
Ngày 18/10/2019, Công ty HTK khởi kiện TĐ ĐL tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam.
Ngày 01/11/2019, Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam đã có thông báo cho Công ty HTK biết Ngân hàng đã trích nợ tài khoản của Công ty HTK để thanh toán bảo lãnh dự thầu cho TĐ ĐL. Công ty HTK khởi kiện yêu cầu buộc TĐ ĐL phải thanh toán tiền bảo lãnh dự thầu là 11.200.000.000 đồng. Phí tư vấn pháp lý là 120.000.000 đồng. Phí trọng tài là 437.826.000 đồng. Lãi suất ngân hàng là 1.134.933.333 đồng.
Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 62/19 ngày 01/12/2020 của HĐTT thuộc Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam. Không chấp nhận các yêu cầu của Công ty HTK đối với TĐ ĐL về việc hoàn trả số tiền bảo lãnh dự thầu là 11.200.000.000 đồng. Thanh toán 80% phí tư vấn pháp lý là 120.000.000 đồng và l ãi suất ngân hàng là 1.134.933.333 đồng.
Ngày Ngày 18/12/2020, Công ty HTK có đơn yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài số 62/9 ngày 01/12/2020 do Phán quyết trọng tài vi phạm nguyên tắc trọng tài viên phải tuân theo quy định của pháp luật quy định trong Luật trọng tài thương mại là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. HĐTT không căn cứ vào quy định của pháp luật đấu thầu, tại Điều 21 Nghị định 63/2014/NĐ-CP và Điều 12.1(g) Luật đấu thầu năm 2013, Điều 3 Thông tư số 19/2015/TT-BKHĐT. Do TĐ ĐL đã chậm trễ trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu, không tuân thủ thời hạn đánh giá hồ sơ dự thầu, nên Công ty HTK không vi phạm khi không giữ được lịch giao hàng. Phán quyết của HĐTT không tôn trọng nguyên tắc tự do, tự nguyện, thỏa thuận của các bên theo quy định tại Điều 3.2 Bộ luật Dân sự 2015 quy định. Trong giai đoạn thương thảo hợp đồng, ngày 23/4/2019 hai bên đã tạm thời thống nhất về lịch giao hàng từ tháng 6 đến tháng 9/2019, tuy nhiên còn một số nội dung hai bên chưa thống nhất được như: thời gian tàu đến, năng xuất xếp dỡ… Do TĐ ĐL chậm trễ trong việc đánh giá hồ sơ dự thầu nên Công ty HTK không còn hàng để cấp cho TĐ ĐL theo lịch đã thống nhất ngày 23/4/2019. Công ty HTK đã đề xuất thay đổi lịch giao hàng khác với thỏa thuận ban đầu cụ thể là từ tháng 9 đến tháng 12 thay vì từ tháng 6 đến tháng 9/2019 nhưng ngày 13/5/2019 TĐ ĐL lại đề xuất lịch là từ tháng 7 đến tháng 9/2019. Do kế hoạch của TĐ ĐL không đảm bảo quyền lợi của Công ty HTK nên Công ty HTK không đồng ý. Như vậy, hai bên đã tự nguyện thương thảo với nhau về kế hoạch giao hàng theo đúng nguyên tắc của Bộ luật tố tụng Dân sự nhưng không thống nhất được. HĐTT không tôn trọng quá trình và kết quả thỏa thuận trong phiên họp cuối cùng ngày 13/5/2019 mà vẫn căn cứ vào sự kiện hai bên đã thống nhất tạm thời ngày 23/4/2019 là không tôn trọng sự tự do tự nguyện thỏa thuận của các bên. HĐTT không tôn trọng ý chí của nguyên đơn, bị đơn trong giai đoạn thương thảo khi cho rằng Công ty HTK đưa ra lịch giao hàng mới không phù hợp với hồ sơ mời thầu và cam kết trong hồ sơ dự thầu. TĐ ĐL đã không tôn trọng kế hoạch chạy thử của nhà máy, chủ động đưa ra những đề nghị lịch giao hàng không phù hợp với kế hoạch chạy thử của nhà máy nên không có quyền yêu cầu hay cáo buộc Công ty HTK không tuân theo kế hoạch chạy thử của nhà máy.
Bên liên quan: TĐ ĐL. Công ty HTK cho rằng do TĐ ĐL có vi phạm nên Công ty HTK không được coi là có vi phạma khi không giữ được lịch giao hàng như thỏa thuận của các bên là không có cơ sở. Trong toàn bộ quá trình tố tụng tại trọng tài, TĐ ĐL đã yêu cầu nhưng HTK không đưa ra được căn cứ pháp lý cho rằng HTK được quyền tự thay đổi kế hoạch cấp hàng theo hồ sơ dự thầu và việc thay đổi kế hoạch cấp hàng là không vi phạm. Theo Điểm b khoản 3 Điều 14 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP “Bất kỳ tài liệu nào được nhà thầu gửi đến sau thời điểm đóng thầu để sửa đổi, bổ sung hồ sơ dự thầu đã nộp đều không hợp lệ”. Phán quyết của HĐTT đã xem xét đầy đủ các Bản ý kiến, kiến nghị các bên và đã thể hiện các căn cứ pháp luật đấu thầu phù hợp để giải quyết vụ tranh chấp, không vi phạm nguyên tắc tự do tự nguyện thỏa thuận của các bên theo quy định. Việc HTK dựa vào những nhận định phiến diện về những nội dung các bên không thống nhất trong quá trình thương thảo hợp đồng để cho rằng HĐTT đã vi phạm nguyên tắc tại khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự 2015 là không phù hợp và không đúng bản chất pháp lý. Ý chí xuyên suốt của TĐ ĐL trong toàn bộ quá trình đầu thầu, thương thảo hợp đồng là nhà thầu phải cung cấp than phù hợp với kế hoạch chạy thử nghiệm thu của Nhà máy nhiệt điện VT 4 và phù hợp với các cam kết về cấp than đã được nhà thầu đề xuất trong Hồ sơ dự thầu nhưng HTK đã tuyên bố không thể cấp được than theo thời gian đã đề xuất trong Hồ sơ dự thầu, mà đề xuất kế hoạch cấp than mới nằm ngoài thời gian yêu cầu của Hồ sơ mời thầu và Hồ sơ dự thầu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân. Hội đồng xét đơn đã tuân thủ đúng quy định pháp luật tố tụng, đương sự đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.. Phán quyết trọng tài đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài của Bên yêu cầu.
Nhận định của tòa án
Bên yêu cầu cho rằng Hội đồng trọng tài không độc lập, vô tư khách quan căn cứ vào việc sử dụng một số câu từ không phù hợp trong nhận định của Phán quyết trọng tài là không có căn cứ vì việc phân tích, đánh giá nội dung vụ việc là quyền của Hội đồng trọng tài và Hội đồng phiên họp hôm nay thấy rằng Hội đồng trọng tài sử dụng các câu, từ đó là phù hợp với văn phong nhằm phản ánh diễn biến vụ việc mà không vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức, không thể hiện sự không độc lập, vô tư, khách quan của Hội đồng trọng tài. Bên yêu cầu cho rằng Phán quyết trọng tài vi phạm nguyên tắc, không tôn trọng nguyên tắc tự do, tự nguyện, thỏa thuận của các bên trong quy định của Bộ luật dân sự. Hội đồng trọng tài đã áp dụng không đúng quy định của pháp Luật Dấu thầu, Luật Dân sự và Luật Thương mại để giải quyết vụ việc. Thực tế, các bên chưa thống nhất được lịch giao hàng cụ thể vì kế hoạch giao hàng luôn thay đổi. Do TĐ ĐL có lỗi vì đã vi phạm quy định của Luật đấu thầu khi thực hiện quy trình đánh giá hồ sơ dự thầu gói thầu số 11 nên đề xuất về
thời gian giao hàng mới của Công ty HTK là phù hợp với lịch trình thực hiện dự án thực tế của TĐ ĐL và Công ty HTK được coi là không có lỗi là không có cơ sở. Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 62/19 ngày 01/12/2020 của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam lập tại Hà Nội không vi phạm khoản 2 điều 68 Luật trọng tài thương mại. Do vậy, yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 62/19 ngày 01/12/2020 của Công ty HTK là không có cơ sở.
Quyết định của Tòa án
Không chấp nhận yêu cầu của Công ty TNHH HTK về việc hủy Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 62/19 ngày 01/12/2020 của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC).
Cơ sở pháp lý
Khoản 2 Điều 31, Điều 414, Điều 415 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 3, Điều 68, Điều 69, Điều 71 và Điều 72 Luật Trọng tài thương mại; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.