Quyết Định Số 04.2023.QĐ-PQTT. Yêu Cầu Hủy Phán Quyết Trọng Tài Trong Tranh Chấp Hợp Đồng Thuê Dịch Vụ Hậu Cần

Vania Van

Quyết định số: 04/2023/QĐ-PQTT

Bên yêu cầuCông ty A 

Bên liên quan: Công ty D

V/v: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trong tranh chấp hợp đồng thuê dịch vụ hậu cần

 

Nội dung vụ việc

Ngày 24/4/2019, Công ty D  và Công ty A giao kết hợp đồng thuê mặt bằng số PVMS.0119005, được sửa đổi lần 1 ngày 22/5/2019, sửa đổi lần 2 ngày 26/6/2019 (Hợp đồng 05) và Hợp đồng thuê dịch vụ hậu cần phục vụ thi công trên bãi số PVMS.011900, được sửa đổi lần 1 ngày   22/5/2019, sửa đổi lần 2 ngày 1/7/2019, sửa đổi lần 3 ngày 24/4/2020, sửa đổi lần 4 năm 2020, sửa đổi lần 5 ngày 1/10/2020) (Hợp đồng 06). Ngày 08/07/2019, Công ty D bàn giao cho Công ty A bãi thi công theo biên bản số 01/19/A. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty A nhiều lần vi phạm nghĩa vụ thanh toán, không thực hiện đúng thỏa thuận thanh toán tại hợp đồng.

Ngày 27/04/2022, Công ty D khởi khiện Công ty A ra Trung tâm V, yêu cầu thanh toán số tiền 14.329.351.772 đồng là tiền nợ gốc và lãi chậm trả đối với Hợp đồng 05 và Hợp đồng 06 và chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Buộc Công ty A phải di dời tài sản hoàn trả Công ty D bãi thi công theo nguyên ban đầu.  Công ty A có quyền tháo dỡ tài sản của Công ty A. Công ty D không chịu trách nhiệm đối với thiệt hại tài sản của Công ty A. Công ty A phải chịu hoàn toàn chi phi háo dỡ, di dời tài sản và mọi khoản nợ trước khi lấy tài sản ra khỏi căn cứ cảng của Công ty D. Trong thời gian di dời, Công ty A phải chịu tiền thuê bãi theo đơn giá trong Hợp đồng số 05 đã ký cho đến khi hoàn tất việc bàn giao cho bãi thi công nguyên trạng như khi nhận.

Ngày 20/09/2022, Công ty D thay thế các yêu cầu khởi kiện, cụ thể: Buộc Công ty A phải trả số tiền 14.329.351.772 đồng là tiền nợ gốc và lãi chậm trả đối với Hợp đồng 05 và Hợp đồng 06. Tiền thuê bãi và lãi suất phạt trả chậm theo đơn giá trong Hợp đồng 05 cho đến khi hoàn tất việc bàn giao cho Nguyên đơn bãi thi công nguyên trạng như khi nhận với số tiền 2.025.817.155 đồng tính đến ngày 31 tháng 8 năm 2022.  Chịu toàn bộ chi phí trọng tài và chi phí pháp lý liên quan đến tranh chấp số 28/22, gồm phí trọng tài: 466.026.000 đồng và tạm ứng công tác phí trọng tài viên mà Công ty D đã nộp là 12.000.000 đồng.

 

Phán quyết Trọng tài vụ tranh chấp số 28/22 ngày 19/10/2022. Chấp nhận yêu cầu của Công ty D buộc Công ty A phải thanh toán Tiền nợ gốc theo Hợp đồng 05 là: 3.682.674.596 đồng và tiền lãi chậm trả theo Hợp đồng 05 là: 855.239.906 đồng. Tiền nợ gốc theo Hợp đồng 06 là: 7.837.335.583 đồng và tiền lãi chậm trả theo Hợp đồng 06 là: 2.196.419.959 đồng. Phí trọng tài là 444.215.000 đồng, trong vòng 30 ngày kể từ ngày có phán quyết.  Không đồng ý với phán quyết trọng tài. Công ty A  nộp đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với lý do: Phán quyết Trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam; chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là tài liệu chưa có giá trị chứng minh. Cụ thể: Hợp đồng 05, Công ty A chỉ sử dụng mặt bằng thực tế đến ngày 30/6/2021 và đã gửi công văn số 43/2021/CV-A đề nghị bàn giao toàn bộ các hạng mục tại mặt bằng thuê Công ty D đã nhận toàn bộ mặt bằng, nhà xưởng, thiết bị sử dụng từ ngày 1/7/2021. Như vậy Công ty A không sử dựng mặt bằng từ ngày 1/7/2021 nên không phải thanh toán tiền thuê kể từ thời điểm 1/7/2021.  Thực tế Công ty A không nhận được hoá đơn số 216,217,  ảnh chụp tin nhắn trên Zalo không phải là chứng cứ có giá trị chứng minh để làm căn cứ giải quyết.

 

Bên liên quan: Công ty D. Từ tháng 8/2020 đến tháng 1/2022 hai bên có nhiều văn bản, cuộc họp để thống nhất nội dung Công ty A thanh toán cho Công ty D nhưng Công ty A không thực hiện những nội dung đã thống nhất.  Do Công ty A không thực hiện trách nhiệm theo quy định của hợp đồng, việc đàm phán sau khi xảy ra tranh chấp không đạt được kết quả mặc dù những nội dung đã được hai bên nhất trí bằng văn bản cũng không được Công ty A thực hiện. Vì vậy Công ty D có đơn khởi kiện tại Trung tâm V là đúng với quy định của pháp luật. Công ty D không đồng ý hủy phán quyết và cho rằng các lý do đề nghị hủy phán quyết của bên yêu cầu là không có căn cứ, nhằm kéo dài thời gian trả nợ.

 

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội.  Phán quyết Trọng tài vụ tranh chấp số 28/22, bên yêu cầu đưa ra căn cứ huỷ phán quyết là không chấp nhận chứng cứ, tài liệu qua Zalo. Văn bản không được gửi theo đúng địa chỉ đã thoả thuận trong hợp đồng. Phán quyết Trọng tài vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam là không có cơ sở. Nhận định của Trung tâm V tại Phán quyết trọng tài và chứng cứ mà Trọng tài căn cứ để ban hành phán quyết được thu thập đúng trình tự, có giá trị làm chứng cứ để chứng minh theo quy định pháp luật Việt Nam.

 

Nhận định của Tòa án 

Trong quá trình giải quyết Hội đồng Trọng tài cũng đã thực hiện để các bên được quyền bình đẳng, được quyền gửi văn bản, trình bày các ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, thoả thuận về việc giải quyết vụ án, cung cấp các chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Công ty A không nêu được ý kiến cho rằng Hội đồng Trọng tài khi giải quyết đã vi phạm quy định tại điều 3 Bộ Luật dân sự 2015: Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự đó là mọi cá nhân đều nình đẳng trước pháp luật, có trách nhiệm thực hiện, cấm dứt nghĩa vụ trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực, không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Tại Phán quyết trọng tài đã quyết định Công ty A là bên phải thực hiện việc thanh toán theo Hợp đồng 05, 06. Việc các bên ký hợp đồng là tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó các bên phải chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự theo khoản 5 điều 3 Bộ luật dân sự 2015. Vì vậy ý kiến của Công ty A cho rằng phán quyết Trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam nhưng không chỉ ra được vi phạm nguyên tắc cơ bản nào.  Về ý kiến của Công ty A cho rằng chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là tài liệu chưa có giá trị chứng minh. Đó là công văn số 43/2021. CV-A là thông báo chấm dứt hợp đồng, Hoá đơn số 216, 217 được giao dịch qua Zalo, Công ty A không nhận được 02 hoá đơn này theo đúng địa chỉ được các bên đã thoả thuận trong hợp đồng nên không phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán.

Hội đồng xét đơn yêu cầu căn cứ vào các quy định tại điều 68 của Luật Trọng tài thương mại và các tài liệu kèm theo để xem xét, quyết định; không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết. Do đó ý kiến này của Công ty A không thuộc phạm vi giải quyết của Hội đồng xét đơn.

 

Quyết định của Tòa án 

Không chấp nhận yêu cầu Hủy phán quyết Trọng tài vụ kiện số 28/22 được lập ngày 19/10/2022  của Hội đồng Trọng tài Trung tâm V về việc giải quyết tranh chấp Công ty D và Công ty A.

 

Cơ sở pháp lý

Khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại; khoản 5 Điều 3 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 39 của Luật Trọng tài thương mại và Điều 11, Điều 12 Quy tắc tố tụng trọng tài.