Quyết Định Số 755.QĐ-PQTT. Yêu Cầu Hủy Phán Quyết Trọng Tài Trong Tranh Chấp Vi Phạm Thỏa Thuận Bảo Mật Thông Tin Và Không Cạnh Tranh
Quyết định số: 755/2018/QĐ-PQTT
Người yêu cầu: Bà Đỗ Thị Mai T.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH X
V/v: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trong tranh chấp vi phạm thỏa thuận bảo mật thông tin và không cạnh tranh
Nội dung vụ việc
Công ty TNHH X và bà Đỗ Thị Mai T ký kết hợp đồng lao động có thời hạn 12 hai tháng, từ ngày 10/10/2015 đến 31/10/2016. Vị trí làm việc là Trưởng bộ phận tuyển dụng. Ngày 21/10/2015, Công ty X và bà T đã ký kết Thỏa thuận bảo mật thông tin và không cạnh tranh, trong đó tại Khoản 1, Điều 3 NDA có nội dung: “Trong quá trình cá nhân được tuyển dụng hoặc làm việc với Công ty X và trong thời gian mười hai (12) tháng dương lịch sau khi chấm dứt tuyển dụng hoặc kết thúc làm việc với Công ty X, không xét đến nguyên nhân chấm dứt tuyển dụng hoặc kết thúc làm việc, cá nhân đồng ý không, trực tiếp hoặc gián tiếp và trên toàn bộ phạm vi lãnh Thổ, thực hiện công việc tương tự công việc hoặc về bản chất tương tự công việc vào bất kỳ công việc kinh doanh nào cạnh tranh với Lazada.vn (…), đang hoặc trong tương lai sẽ cạnh tranh với công việc kinh doanh của Lazada.vn, Recess và/hoặc các đơn vị liên kết và các đối tác của Công ty X”. Các bên cũng thỏa thuận nếu xảy ra tranh chấp sẽ được giải quyết bằng phán quyết trọng tài.
Ngày 01/11/2016, Công ty X và bà T tiếp tục ký kết hợp đồng lao động có thời hạn là 12 tháng từ ngày 01/11/2016 đến 31/10/2017 với vị trí là Trưởng bộ phận Tuyển dụng. Sau đó, ngày 18/11/2016, bà T chấm dứt Hợp đồng lao động năm 2016 với Công ty X.
Ngày 02/10/2017, Công ty X đã nộp đơn khởi kiện kèm theo các chứng cứ tại VIAC, theo đó yêu cầu bà T bồi thường cho Công ty X số tiền 205.197.300 đồng, bằng 03 lần tiền lương tháng liền kề trước khi bà T đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động năm 2016 vì bà T đã vi phạm Khoản 1, Điều 3 NDA.
Phán quyết Trọng tài số 75/17 HCM ngày 19/02/2018, Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) lập tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của Công ty TNHH X, buộc bà Đỗ Thị Mai T phải thanh toán cho nguyên đơn tiền bồi thường là 205.197.300 VND. Bị đơn phải chịu toàn bộ phí trọng tài của vụ tranh chấp này là 24.600.000 VND trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày lập phán quyết trọng tài. Trường hợp bị đơn chậm thanh toán, bị đơn phải tiếp tục chịu lãi chậm trả theo quy định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015, với mức lãi suất 10%/năm, tương ứng với số tiền chậm trả và thời gian chậm trả.
Không đồng ý với phán quyết của trọng tài, ngày 22/3/2018, bà T đã nộp đơn khởi kiện tại Toà án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh với yêu cầu xem xét huỷ toàn bộ nội dung Phán quyết Trọng tài số 75/17 HCM ngày 19/02/2018 của VIAC với các lý do: Thoả thuận trọng tài vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật Việt Nam, Phán quyết của Trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Thủ tục trọng tài trái với các quy định của Luật Trọng tài thương mại. Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Hội đồng trọng tài sử dụng chứng cứ giả mạo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định về thẩm quyền giải quyết vụ án, Tòa án có quyết định mở phiên họp và gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng thời hạn, cấp và tống đạt các văn bản tố tụng cho người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Phiên họp tiến hành đúng trình tự pháp luật Tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Không có cơ sở chấp nhận yêu cầu của bà Đỗ Thị Mai T về việc hủy phán quyết trọng tài.
Nhận định của Tòa án
Điều 13 Luật Trọng tài Thương mại 2010 quy định: “Trong trường hợp một bên phát hiện có vi phạm quy định của Luật này hoặc của thỏa thuận trọng tài mà vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và không phản đối những vi phạm trong thời hạn do Luật này quy định thì mất quyền phản đối tại Trọng tài hoặc Tòa án”. Điều 6 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 hướng dẫn Luật Trọng tài thương mại do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định: “Trường hợp một bên phát hiện có vi phạm quy định hoặc của thỏa thuận trọng tài mà vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và không phản đối với Hội đồng trọng tài, Trung tâm trọng tài những vi phạm đó trong thời hạn do Luật Trọng tài Thương mại quy định thì mất quyền phản đối tại Trọng tài, hoặc tại Tòa án đối với những vi phạm đã biết đó. Trường hợp Luật Trọng tài Thương mại không quy định thời hạn thì thời hạn được xác định theo thỏa thuận của các bên hoặc quy tắc tố tụng trọng tài”. Điều 9 Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC có hiệu lực từ ngày 01/03/2017 quy định: “Trong trường hợp bị đơn cho rằng thỏa thuận trọng tài không tồn tại, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì bị đơn phải nêu rõ trong Bản tự bảo vệ. Nếu bị đơn không nêu rõ điều đó trong bản tự bảo vệ thì bị đơn mất quyền phản đối”. Trong Bản tự bảo vệ đề ngày 04/12/2017 của bà T, cũng như trong suốt quá trình tố tụng trọng tài, bà T không hề đưa ra bất cứ phản đối nào đối với thoả thuận trọng tài. Như vậy, bà T đã mất quyền phản đối về thoả thuận trọng tài theo quy định.
Bà T cho rằng NDA vi phạm quy định về quyền làm việc của người lao động, vi phạm các hành vi bị nghiêm cấm theo Luật Việc làm 2013 mà Hội đồng Trọng tài vẫn công nhận NDA là Hội đồng Trọng tài đã vi phạm nguyên tắc tuân thủ pháp luật của người lao động cũng như điều cấm tại Luật Việc làm 2013. Điều 4 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Quyền tự do cam kết, thoả thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”. Giữa bà T với Công ty X đã tự nguyện ký kết thỏa thuận, khi ký bà T là người có đầy đủ năng lực hành vi theo quy định của pháp luật, không bị ép buộc, lừa dối hay áp đặt. Do đó, việc Hội đồng Trọng tài công nhận hiệu lực của NDA là hoàn toàn đúng pháp luật. Bà T cho rằng thủ tục trọng tài trái với quy định của Luật Trọng tài thương mại và vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Căn cứ Khoản 2, Điều 2, Luật Trọng tài thương mại quy định: “Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài: Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại”. Công ty X là thương nhân, có đăng ký kinh doanh, có hoạt động thương mại theo Luật Thương mại 2005. Do đó, Thỏa thuận trọng tài thuộc thẩm quyền giải quyết của VIAC và trọng tài theo quy định tại Khoản 2, Điều 2 Luật Trọng tài thương mại. Tại Khoản 4, Điều 35 Luật Trọng tài thương mại quy định. Thỏa thuận NDA là một thỏa thuận độc lập, khi có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài như sự lựa chọn của các bên từ khi ký kết. Ở lý do chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo, xét thấy các tài liệu do Ngân hàng ANZ và Công ty X xác nhận nên không thể xem là giả mạo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đề nghị không chấp nhận yêu cầu của bà T về việc hủy phán quyết trọng tài.
Quyết định của Tòa án
Không chấp nhận yêu cầu của bà Đỗ Thị Mai T về việc yêu cầu hủy Phán quyết Trọng tài số 75/17 HCM của Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) lập ngày 19/02/2018 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Cơ sở pháp lý
Khoản 2 Điều 31, Điểm a Khoản 3 Điều 38, Khoản 3 Điều 414 và Điều 415 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015; Khoản 1 Điều 5, Điểm g Khoản 2 Điều 7, Khoản 2 Điều 16, Điều 60, Khoản 2 Điều 68, Khoản 1 Điều 69, Điều 71, Điều 72 Luật Trọng tài thương mại; Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP.