Tóm Tắt Bản Án Số 03.2024.LĐPT. Tranh Chấp Yêu Cầu Hủy Thông Báo Chấm Dứt Lao Động Và Bồi Thường Thiệt Hại

Vania Van

Bản án số: 03/2024/LĐPT

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H

Bị đơn: Công ty TNHH Advanex Việt Nam

 V/v: Tranh chấp yêu cầu hủy thông báo chấm dứt lao động và bồi thường thiệt hại

 

Nội dung vụ án

Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị H

Bà H được tuyển dụng vào làm việc tại Công ty TNHH Advannex Việt Nam (Công ty AVN) với vị trí Trưởng phòng Tài chính Kế toán theo Hợp đồng lao động (HĐLĐ) có thời hạn 02 tháng từ ngày 15/9/2021 đến ngày 14/11/2021. Sau khi hết thời gian thử việc Công ty AVN không ký kết HĐLĐ mới với bà. Bà tiếp tục làm việc tại công ty cho đến ngày 12/5/2022 thì nhận được Thông báo chấm dứt quan hệ lao động từ AVN. Theo thông báo, Công ty AVN đơn phương chấm dứt quan hệ lao động với bà kể từ ngày 13/6/2022 với lý do thông tin về thời gian, vai trò, vị trí làm việc tại các công ty do bà cung cấp trong bản CV giới thiệu là không chính xác và kết luận bà vi phạm quy định tại Khoản 2 Điều 16 BLLĐ về “trình độ nghề và kinh nghiệm làm việc”. Nhận thấy việc AVN đơn phương chấm dứt quan hệ lao động với bà là trái với quy định của pháp luật lao động Việt Nam, vi phạm pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp cũng như ảnh hưởng đến uy tín của bà nên bà khởi kiện yêu cầu Toà án hủy Thông báo chấm dứt quan hệ lao động, nhận bà trở lại làm việc theo hợp đồng đã giao kết, trả tiền lương, phép, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày bà không được làm việc và một khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng lương theo HĐLĐ, trả một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo HĐLĐ trong những ngày không báo trước do vi phạm quy định về thời hạn báo trước, bồi thường cho những thiệt hại về tổn thương tinh thần, vật chất, danh dự mà AVN đã gây ra cho bà, bồi thường về vi phạm bảo mật dữ liệu cá nhân theo quy định của BLDS.  Tại yêu cầu khởi kiện bổ sung bà yêu cầu cụ thể các khoản bồi thường: Khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng lương theo HĐLĐ là 108.000.000 đồng. Khoản vi phạm thời gian báo trước là 81.000.000 đồng. Khoản thiệt hại về tổn thương tinh thần, vật chất và danh dự là 41.600.000 đồng. Khoản bồi thường vi phạm bảo mật dữ liệu cá nhân là 20.000.000 đồng.

 

Bị đơn: Công ty TNHH Advanex Việt Nam

Công ty AVN tuyển của bà H vào vị trí Trưởng phòng Tài chính kế toán.  Công ty cho rằng trình độ, kỹ năng, chuyên môn của bà được liệt kê trong bản CV có thể đáp ứng được yêu cầu công việc nên đã ký kết hợp đồng thử việc số 01/495/AVN-TV với nội dung: Bà H sẽ thử việc tại công ty AVN với vị trí Trưởng phòng Tài chính kế toán trong 60 ngày kể từ ngày 15/9/2021 đến ngày 14/11/2021 và sẽ ký hợp đồng lao động có thời hạn 01 năm sau khi hết thời gian thử việc. Hết thời gian thử việc theo hợp đồng, Bà H vẫn làm việc tại Công ty, Phòng Hành chính Nhân sự chuyển cho bà H HĐLĐ số 01/495/AVN ngày 14/11/2021 có thời hạn một năm tính từ ngày 14/11/2021 đến ngày 13/11/2022, có đóng dấu, chữ ký của Phó tổng Giám đốc Công ty. Tuy nhiên không hiểu vì lý do gì phía bà H không thực hiện nghĩa vụ ký kết vào bản HĐLĐ, không bàn giao HĐLĐ đã ký kết cho Công ty mà yêu cầu Công ty ký hợp đồng dài hạn. Sau đó khẳng định: Bà tiếp tục làm việc sau thời gian thử việc 60 ngày thì đương nhiên được hiểu là một HĐLĐ không xác định thời hạn đã được ký kết giữa các bên. Trong quá trình làm việc, Công ty AVD nghi ngờ về năng lực, đạo đức và sự trung thực của bà H khi cung cấp sai thời gian công tác, vị trí làm việc thực tế tại công ty cũ.  Điều này vi phạm các tiêu chuẩn về đạo đức của một vị trí quan trọng như Trưởng phòng Tài chính và Kế toán. Do vậy, theo BLLĐ 2019, Công ty AVN có quyền đơn phương chấm dứt quan hệ lao động với bà H. Quyết định chấm dứt quan hệ lao động với bà H được công ty AVN ban hành đúng quy định pháp luật lao động Việt Nam, phù hợp với sự thật khách quan, nên Công ty không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ngoài ra Công ty AVN có yêu cầu phản tố đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bởi lẽ hành vi vi phạm của bà H và việc chấm dứt quan hệ lao động với bà H đã gây ra các thiệt hại trực tiếp cho công ty khi phải bỏ chi phí tư vấn luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Công ty yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết yêu cầu bà H thanh toán, bồi thường cho công ty các khoản tiền phí dịch vụ tuyển dụng để tuyển dụng bà H. là 108.000.000 đồng, khoản tiền thuê Luật sư để tham gia tố tụng là 35.000.000 đồng,  các chi phí, phí tổn khác liên quan đến việc giải quyết vi phạm của bà H và chấm dứt quan hệ lao động tạm tính là 90.780.590 đồng. Tổng số tiền yêu cầu thanh toán, bồi thường là: 233.780.590 đồng.

 

Tại bản án sơ thẩm

Đình chỉ yêu cầu của nguyên đơn về buộc bị đơn phải thanh toán tiền bảo hiểm xã hội trong thời gian nguyên đơn nghỉ việc và buộc công ty AVN phải hủy Thông báo chấm dứt QHLĐ ngày 12/5/2022, nhận bà H trở lại làm việc theo hợp đồng đã giao kết.  Không chấp nhận yêu cầu buộc Công ty AVN bồi thường các khoản tiền lương, tiền phép trong thời gian không được làm việc, tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp. yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần và vi phạm bảo mật dữ liệu cá nhân, trả 1 khoản tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước.  Không chấp nhận yêu cầu phản tố của công ty AVN về việc buộc bà H phải chi trả cho công ty các chi phí dịch vụ theo yêu cầu phản tố. Ghi nhận tự nguyện của công ty AVN hỗ trợ cho bà Nguyễn Thị H 01 tháng lương bằng 54.000.000 đồng.  Bà H kháng cáo.

 

Tại phiên tòa phúc thẩm

Nhận thấy việc bà H nhầm lẫn khi cung cấp thông tin, thời gian làm việc là không cố ý, không ảnh hưởng đến Công ty AVN. Công ty AVN đơn phương chấm dứt HĐLĐ với bà H là trái luật nên tòa buộc Công ty AVN phải hủy thông báo chấm dứt hợp đồng và nhận bà H trở lại làm việc. Phải trả tiền lương, phép, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày bà không được làm việc, trong những ngày không báo trước , bồi thường cho những thiệt hại về tổn thương tinh thần, vật chất, danh dự , bồi thường về vi phạm bảo mật dữ liệu cá nhân… theo đúng các khoản tiền mà bà H đã khởi kiện yêu cầu.

 

Nhận định của Tòa án 

Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị H, Hội đồng xét xử thấy: Căn cứ vào khoản 2 Điều 4 của Hợp đồng lao động thử việc giữa Công ty AVN và bà Nguyễn Thị H thì người sử dụng lao động là phía công ty AVN có quyền chấm dứt hợp đồng lao động.  Khoản 2 Điều 16 Bộ luật Lao động 2019 quy định: “Người lao động phải cung cấp thông tin trung thực cho người sử dụng lao động về họ tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, nơi cư trú, trình độ học vấn, trình độ kỹ năng nghề, xác nhận tình trạng sức khỏe và vấn đề khác liên quan trực tiếp đến việc giao kết hợp đồng lao động mà người sử dụng lao động yêu cầu”.  Bà H vi phạm khi có hành vi không không trung thực, Công ty AVN chấm dứt quan hệ lao động với bà H là phù hợp với quy định của pháp luật.  Và vì vậy các yêu cầu khởi kiện bồi thường của bà H Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận là phù hợp và có căn cứ.  Bà H và Công ty AVN kháng cáo bản án nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào mới nên không có căn cứ chấp nhận,  bác toàn bộ kháng cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm xử.

 

Quyết định của Tòa án 

Đình chỉ yêu cầu của nguyên đơn về buộc bị đơn phải thanh toán tiền bảo hiểm xã hội trong thời gian nguyên đơn nghỉ việc. Không chấp nhận các yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc Công ty AVN hủy thông báo chấm dứt QHLĐ và nhận bà H trở lại làm việc cũng như bồi thường các khoản tiền lương, tiền phép trong thời gian không được làm việc, tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp, bồi thường tổn thất tinh thần,bảo mật dữ liệu cá nhân và khoản tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước. Ghi nhận tự nguyện của công ty AVN hỗ trợ cho bà Nguyễn Thị H 01 tháng lương bằng 54.000.000 đồng.

Không chấp nhận yêu cầu phản tố của công ty AVN về việc buộc bà H phải chi trả các chi phí dịch vụ theo yêu cầu phản tố.

Bà Nguyễn Thị H không phải chịu án phí lao động sơ thẩm và án phí lao động phúc thẩm. Công ty AVN phải chịu án phí lao động sơ thẩm là 7.013.417 đồng và án phí lao động phúc thẩm 300.000 đồng.

 

Cơ sở pháp lý

khoản 1, Điều 32; Điểm c, Khoản 1, Điều 35 và Khoản 1, Điều 39; Các Điều 147; 217; 218; Khoản 2 Điều 244, 254, 262, 264, 266, 267, 271, 273, khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Các Điều 16, 20, 36, 38, 41, 48 Bộ luật Lao động; Khoản 1, Điều 3 Luật an toàn thông tin mạng; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14.