Tóm Tắt Bản Án Số 04.2024.KMTM-PT. Về Việc Tranh Chấp Hợp Đồng Tín Dụng
Bản án số: 04/2024.KMTM-PT
Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại Cổ phần ĐA
Bị đơn: Bà Đỗ Thị D – Ông Nguyễn Đức M (Đã chết)
V/v: Tranh chấp hợp đồng tín dụng.
Nội dung vụ án
Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA có ký kết Hợp đồng nguyên tắc số K.0231/1CT ngày 03/10/2006 và Hợp đồng tín dụng số K0001/1CT ngày 06/10/2006 với ông Nguyễn Đức M và bà Đỗ Thị D với nội dung cho ông M và bà D vay số tiền 6.100.000.000 VNĐ. Mục đích vay: Bổ sung vốn kinh doanh chứng khoán. Thời hạn vay 12 tháng kể từ ngày 06/10/2006 đến ngày 06/10/2007. Lãi suất vay: 1,20%/tháng. Tài sản thế chấp để đảm bảo cho khoản vay gồm: Căn nhà và quyền sử dụng đất tại số 18/46C TQD, Phường 14, Quận 3, Tp. HCM. Căn nhà và quyền sử dụng đất tại số 18/80 (phần còn lại) TQD, Phường 14, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh theo Hợp đồng thế chấp số K.0042/HĐTC ngày 04/10/2016. Quyền sử dụng và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 31-99, tờ bản đồ số 04, xã PN, Phường 9, quận PN, Tp. HCM (nay là số 323/A9 ĐDA, Phường 9, quận PN, TP. HCM) theo Hợp đồng thế chấp số K0041-06/HĐTC ngày 03/10/2006.
Khi đến hạn thanh toán, ông M và bà D không thanh toán nợ vốn gốc, lãi trong hạn cũng như lãi quá hạn mặc dù phía Ngân hàng nhiều lần gửi công văn nhắc nhở. Vì vậy, Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA khởi kiện yêu cầu bị đơn ông M và bà D thanh toán nợ gốc 6.100.000.000 đồng và lãi trong hạn, lãi quá hạn theo hợp đồng.
Năm 2011 bị đơn đã bán tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 31-99, tờ bản đồ số 04, xã PN, Phường 9, quận PN, Thành phố Hồ Chí. Ngày 27/01/2011 đã thanh toán nợ gốc 6.100.000.000 đồng. Do đó Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA khởi kiện yêu cầu bị đơn trả số tiền lãi còn nợ gồm nợ lãi trong hạn, nợ lãi quá hạn tổng cộng: 5.212.220.000 đồng.
Bị đơn: Bà D và người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông M.
Nội dung của Hợp đồng nguyên tắc số K.0231/1CT ngày 03/10/2006; Hợp đồng tín dụng số K0001/1CT ngày 06/10/2006 và các hợp đồng thế chấp như người đại diện của nguyên đơn Ngân hàng đã trình bày là đúng Sau khi vay tiền, bà D và ông M gặp khó khăn về kinh tế nên chưa có khả năng thanh toán nợ. Bà D có làm đơn xin được giảm mức lãi suất cho vay và tạo điều kiện cho bà D bán tài sản để trả nợ. Ngày 26/11/2011 bà D có viết giấy cam kết và được Tổng Giám đốc Ngân hàng ĐA đồng ý tính lãi suất 1,1% tháng. Sau đó bà D đã bán nhà để trả toàn bộ số nợ gốc. Quá trình giải quyết vụ án, Ngân hàng ĐA – Sở giao dịch Thành phố Hồ Chí Minh lập bảng tính lãi hồ sơ , tổng số lãi mà phía bị đơn bà D và ông M còn nợ là 3.448.426.667 đồng. Do đó bà D và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông M chỉ đồng ý trả cho Ngân hàng ĐA số tiền lãi 3.448.426.667 đồng và chấp nhận phát mãi tài sản đã thế chấp nếu không trả được nợ cho ngân hàng.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 1061/2023/KDTM-ST
Ngày 28/6/2023, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bà Đỗ Thị D và những người thừa kế của ông Nguyễn Đức M có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản của ông Nguyễn Đức M trong phạm vi di sản do ông Nguyễn Đức M chết để lại, có nghĩa vụ liên đới thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA số tiền lãi còn là 3.448.426.667 (Ba tỷ bốn trăm bốn mươi tám triệu bốn trăm hai mươi sáu nghìn sáu trăm sáu mươi bảy) đồng.
Trường hợp bà Đỗ Thị D, và những người thừa kế không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi tài sản bảo đảm đã thế chấp để thu hồi nợ. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA đòi bà Đỗ Thị D và những người thừa kế có nghĩa vụ liên đới thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA số tiền lãi quá hạn là 1.763.793.333 đồng.
Ngày 11/07/2023, Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA kháng cáo, yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm sửa một phấn bản án sơ thẩm, buộc bị đơn bà D và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông M trả số tiền nợ lãi quá hạn là 1.763.793.333 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm
Nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần án sơ thẩm, buộc bị đơn bà D và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông M trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA số tiền nợ lãi quá hạn là 1.763.793.333 đồng. Bị đơn bà D và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông đề nghị bác yêu cầu kháng cáo của Ngân hàng ĐA, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh
Những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bản án sơ thẩm tuyên xử là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Đề nghị bác đơn kháng cáo của Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Nhận định của toà án
Hợp đồng tín dụng số K0001/1CT ngày 06/10/2006 Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA cho ông M và bà D vay số tiền 6.100.000.000 đồng. Khi đến hạn thanh toán, ông M và bà D không thanh toán nợ gốc, lãi nên Ngân hàng ĐA khởi kiện yêu cầu bị đơn ông M và bà D thanh toán nợ gốc 6.100.000.000 đồng và lãi trong hạn, lãi quá hạn theo hợp đồng. Sau đó Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA đồng ý cho bị đơn bà D đã bán tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất để trả toàn bộ số tiền nợ gốc.
Xét yêu cầu của Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA đòi bà D và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông M có trách nhiệm trả cho Ngân hàng số tiền nợ lãi quá hạn là 1.763.793.333 đồng. Bà D đã thanh toán toàn bộ số nợ gốc như đã cam kết. Cam kết của bà D về việc trả lãi đối với khoản vay theo mức lãi suất 1,1%/ tháng được sự xác nhận đồng ý của Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA vào ngày 26/01/2011 phù hợp với bảng tính lãi của hồ sơ vay vốn mà Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA đã lập vào ngày 20/8/2014 và phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng, nên có căn cứ chấp nhận. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA buộc bà D và những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông M có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA số tiền nợ lãi 3.448.426.667 đồng. Bác yêu cầu bị đơn trả cho Ngân hàng số tiền nợ lãi quá hạn là 1.763.793.333 đồng là có căn cứ.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA kháng cáo cho rằng Bảng tính lãi của Ngân hàng lập ngày 20/8/2014 có thiếu sót vì chưa tính lãi quá hạn mà chỉ có tính lãi trong hạn nên kháng cáo yêu cầu bà D và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông M trả phần tiền lãi quá hạn 1.763.793.333 đồng, tuy nhiên nguyên đơn cũng không xuất trình được tài liệu, chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo nên không được chấp nhận là có căn cứ, giữ nguyên bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Quyết định của toà án
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA.
Giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 1061/2023/KDTM-ST ngày 28/6/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Buộc bà Đỗ Thị D và những người thừa kế của ông Nguyễn Đức M có nghĩa vụ liên đới thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA (tính từ ngày 18/10/2006 đến ngày 27/01/2011) phát sinh từ Hợp đồng nguyên tắc số K.0231/1CT ngày 03/10/2006, Hợp đồng tín dụng số K0001/1CT ngày 06/10/2006, Giấy cam kết ngày 26/11/2011 và Bảng tính lãi hồ sơ vay ngày 20/8/2014 với số tiền lãi còn nợ là 3.448.426.667 đồng (Ba tỷ bốn trăm bốn mươi tám triệu bốn trăm hai mươi sáu nghìn sáu trăm sáu mươi bảy đồng).
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA đòi bà Đỗ Thị D và những người thừa kế có nghĩa vụ liên đới thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA số tiền lãi quá hạn còn là 1.763.793.333 đồng (Một tỷ bảy trăm sáu mươi ba triệu bảy trăm chín mươi ba nghìn ba trăm ba mươi ba đồng).
Ngân hàng Thương mại Cổ phần ĐA phải nộp 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) án phí dân sự phúc thẩm tranh chấp về kinh doanh thương mại.
Cơ sở pháp lý
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 30, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, khoản 3 Điều 38, khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Các Điều 299, 320, 323, 615 và 637 của Bộ luật dân sự năm 2015; Các Điều 91 và 95 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010; Các Điều 12, 26 và 48 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân 2015.