Tóm Tắt Bản Án Số 08.2024.HS-PT. Xử Lý Tội Sản Xuất Mua Bán Hàng Giả

Vania Van

Bản án số: 08/2024/HS-PT

Bị cáo: Nguyễn Thị H

V/v: Xử lý tội Sản xuất mua bán hàng giả

 

Nội dung vụ án

Tháng 7/2020, anh Kim Min G quốc tịch Hàn Quốc có nhu cầu mua găng tay y tế để bán sang thị trường Mỹ.  Anh Kim Min G nhờ bạn là anh Hong Kyeong M tìm hộ nguồn hàng.  Anh Hong Kyeong M lên mạng Internet tìm hiểu và thấy Nguyễn Thị H – Đại diện pháp luật  Công ty cổ phần T,  sản xuất kinh doanh găng tay y tế.  Anh Hong Kyeong M hệ với H và được H biết có thể cung cấp găng tay y tế cho anh Hong Kyeong M số lượng lớn.  Sau đó, H gặp anh Hong và đưa cho anh Hong Kyeong M hộp găng tay nhãn hiệu S63.  Anh Hong Kyeong M mang đưa lại mẫu cho anh Kim Min G để gửi cho khách hàng xem.

Ngày 10/7/2020, anh Kim Min G, anh Hong Kyeong M và một người bạn là anh Lee Jung đến trụ sở Công ty cổ phần T đặt mua găng tay y tế nhãn hiệu S63. Tại đây, H cho anh Kim Min G xem mẫu găng tay nhãn hiệu S63 và Chứng nhận FDA.  Sau khi xem xong, hai bên thống nhất ký kết hợp đồng, anh Kim Min G đồng ý mua 1.727 thùng  khẩu trang y tế nhãn hiệu S63, giá trị hàng thành tiền là 2.504.150.000 đồng. anh Kim Min G đặt cọc 40% giá trị hợp đồng, tương đương 1.001.660.000 đồng.  Số tiền 1.499.490.000 đồng còn lại sẽ thanh toán sau khi anh Kim Min G nhận đủ hàng.  Công ty T cam kết hàng đúng theo tiêu chuẩn của nhà sản xuất để xuất đi Mỹ. Trường hợp không đúng, Công ty T sẽ chịu trách nhiệm bồi thường.

Thực hiện thỏa thuận đặt cọc 40% giá trị hợp đồng, ngày 13/7/2020, anh Kim Min G chuyển số tiền 960.480.000 và ngày 16/7/2020, chuyển số tiền 41.180.000 đồng cho Công ty T qua hai Phiếu thu Phiếu thu số 0000351 và 0000354 do Nguyễn Thị H đóng dấu Công ty T giao cho anh Kim Min G.  Anh Kim Min G nhận trước 26 thùng găng tay và chuyển sang Mỹ bằng đường hàng không cho khách hàng.  Sau khi nhận hàng, khách hàng phản hồi lại với anh Kim Min G số găng tay trên bị dính, không sử dụng được.  Anh Kim Min G báo lại với nguyễn Thị H, H cam kết sẽ giao số 1.701 thùng găng tay còn lại ngày 30/7/2020 và chịu trách nhiệm với anh Kim Min G về chất lượng.

Do không có găng tay chính hãng nhãn hiệu S63 để giao cho anh Kim Min G, nguyễn Thị H nảy sinh việc sản xuất hàng giả là găng tay nhãn hiệu S63 để bán cho anh Kim Min G. H mua 1,2 tấn găng tay Nitril màu xanh đã qua sử dụng của anh Trần Minh vận chuyển toàn bộ số găng tay trên lên xưởng sản xuất của H khu công nghiệp L, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Sau đó, H mua bộ vỏ hộp, vỏ thùng nhãn hiệu S63, để sản xuất, hô biến khẩu trang đã qua sử dụng thành khẩu trang S63.  Theo chỉ đạo của H, các nhân viên của Công ty T đóng gói được 234 thùng găng tay S63 và báo cho anh Kim Min G đến nhận hàng.   Ngày 29/7/2020, sau khi kiểm tra và nhận đủ hàng hóa, anh Kim Min G niêm phong Container số VN771464A để chuyển hàng về cảng H.  Cùng ngày, Nguyễn H ký với anh Kim Min G phụ lục hợp đồng với nội dung: Còn lại 1.494 thùng găng tay đến ngày 04/8/2020, H có trách nhiệm chuyển hàng từ Việt Nam sang Mỹ cho anh Kim Min G.  Anh Kim Min G ủy thác cho Công ty TNHH S1 làm thủ tục xuất khẩu lô hàng 234 thùng khẩu trang đã nhận sang Mỹ.

Ngày 30/7/2020, Công ty TNHH S1 báo cho anh Kim Min G lô hàng xuất khẩu 234 thùng găng tay được anh Kim Min G ủy thác làm thủ tục không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc xuất xứ nên không được Hải quan Hải Phòng cho thông quan.  Anh Kim Min G nhiều lần gọi điện thoại yêu cầu H cung cấp số hàng hóa đúng như hợp đồng đã ký nhưng không liên lạc được.

Ngày 04/8/2020, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường – Bộ Công an có Công văn số 1314 đề nghị Cục Hải quan thành phố H phối hợp kiểm tra lô hàng xuất khẩu có dấu hiệu vi phạm pháp luật của Công ty TNHH S1.  Ngày 05/8/2020, Đội kiểm soát Hải quan, Cục Hải quan thành phố H có quyết định số 40 về việc khám phương tiện vận tải, đồ vật theo thủ tục hành chính đối với lô hàng đóng trong container số DRYU6023794 do Công ty TNHH S1 làm thủ tục xuất khẩu và thực hiện giám định chủng loại, chất lượng, tình trạng của lô hàng, kết quả: Tại thời điểm giám định, toàn bộ hàng hóa có hiện tượng nhàu, màu sắc và độ dầy không đồng nhất, không có mùi cao su đặc trưng, chun cổ tay của các găng có dấu hiệu gião, biến dạng, nhiều chiếc ố, bạc màu, một số chiếc có vết rách, thủng.

Ngày 07/7/2022, Nguyễn Thị H bị bắt tạm giam, để điều tra. Qua quá trình giám định, điều tra, xác minh Nguyễn Thị H đã thu mua nhiên liệu cũ để sản xuất, làm giả nhãn hiệu lô hàng khẩu trang S63. H thừa nhận không có nguồn hàng găng tay S63 và sau đó có hành vi mua găng tay đã qua sử dụng về đóng gói vào thùng có nhãn hiệu S63 để giao cho khách theo hợp đồng. Quá trình điều tranh Cơ quan Công an đã thu giữ một lượng lớn bao tay cao su không đủ tiêu chuẩn và được làm giả nhãn hiệu cũng như chứng từ. H được sự tiếp tay của nhiều người.

 

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 389/2023/HS-ST ngày 05/9/2023, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã tuyên bố Nguyễn Thị Hm tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả”. Xử phạt Nguyễn Thị H 6 năm tù. Thời hạn tính từ ngày 7/7/2022. H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

 

Tại phiên tòa phúc thẩm.  Giữ  nguyên nội dung sơ thẩm.  Bị cáo Nguyễn Thị H kháng cáo xin giảm hình phạt và thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như Tòa án cấp sơ thẩm quy kết.

 

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội.  Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Thị H tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 192 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.  Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo.

 

Nhận định của Tòa án

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị H nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; có đủ cơ sở kết luận:  Bị cáo Nguyễn Thị H có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả tương đương với số lượng hàng thật trị giá là 456.300.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” theo quy định tại điểm đ khoản 2 điều 192 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Biết rõ Nhà nước nghiêm cấm việc sản xuất , buôn bán hàng giả mạo nhãn hiệu nhưng vì hám lợi vẫn thực hiện. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đều khai nhận hành vi phạm tội, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, lần đầu phạm tội, hoàn cảnh gia đình khó khăn, đang nuôi con nhỏ. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã bồi thường cho người bị hại 1.001.660.000 đồng, chấp hành một phần quyết định của bản án sơ thẩm và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo như ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa.

 

Quyết định của Tòa án

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị H.  Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 389/2023/HS-ST ngày 05/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về phần hình phạt đối với bị cáo, cụ thể như sau: Tuyên bố: Nguyễn Thị H tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả”. Xử phạt: Nguyễn Thị H 03 năm tù .  Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/7/2022.  Buộc bị cáo phải hoàn trả cho anh Kim Min G số tiền 1.001.660.000 đồng và phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

 

Cơ sở pháp lý

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 192; điểm b, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.