Tóm Tắt Bản Án Số 108.2017.KDTM-ST. Tranh Chấp Hợp Đồng Dịch Vụ Logictics
Bản án số: 108/2017/KDTM-ST
Nguyên đơn: Công ty TNHH Phân phối và Thương mại T
Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xuất nhập khẩu Thực phẩm C
V/v: Tranh chấp hợp đồng dịch vụ Logictics
Nội dung vụ việc
Nguyên đơn: Công ty TNHH Phân phối và Thương mại T
Công ty TNHH Phân phối và Thương mại T (Công ty T) có nhờ Công ty TNHH Xuất nhập khẩu thực phẩm C (Công ty C) đứng ra nhập khẩu lô hàng đậu nành trị giá 2.700 USD mua từ Công ty S tại Thái Lan về Việt Nam. Công ty T đã thỏa thuận hàng hóa, số lượng, giá cả với Công ty S bên Thái Lan. Ngày 12/7/2016, Công ty T và Công ty C ký hợp đồng dịch vụ Logistics số 127/2016-UTNK để thực hiện việc chuyển hàng. Ngày 9/07/2016, Công ty C đã ký kết hợp đồng mua bán với Công ty S. Công ty T đã chuyển tiền cho Công ty C 02 lần để Công ty C thanh toán cho Công TY S, lần 1: 35% giá trị hợp đồng là 22.288.000 đồng, lần 2: 65% giá trị hợp đồng là 39.312.000 đồng. Tổng cộng là 60.485.000 đồng. Tuy nhiên, sau đó Công ty T vẫn không nhận được hàng từ Công ty S Thái Lan chuyển về. Theo Công ty C, do đã không kiểm tra tính hợp lệ của bộ chứng từ bên Công ty S Thái Lan cung cấp và đã không kiểm tra kỹ thông tin tàu chạy trước khi chuyển tiền cho bên Công ty S dẫn đến việc Công ty S không giao hàng cho Công ty C để chuyển về Việt Nam giao lại cho Công ty T. Công ty T khởi kiện yêu cầu Công ty C phải bồi thường cho Công ty T số tiền 60.485.000 đồng. Sau đó, tại biên bản hòa giải ngày 27/03/2017, Công ty T thay đổi yêu cầu bồi thường. Yêu cầu Công ty C bồi thường số tiền 39.312.000 đồng thanh toán lần 2 do Công ty C không kiểm tra thông tin tàu chạy mà đã chuyển tiền cho Công ty S. Không yêu cầu hoàn trả số tiền chuyển lần 1 là 22.288.000 đồng.
Tại biên bản hòa giải ngày 01/6/2017. Hợp đồng ngày 19/07/2016 giữa Công ty C và Công ty S là do Công ty T ủy thác ký theo chỉ định của Công ty T về công ty bán, số lượng, chất lượng, giá cả… Giữa Công ty T và Công ty C không ký kết hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa mà ký kết hợp đồng Logistic để làm thủ tục nhập khẩu lô hàng theo hợp đồng mua bán giữa Công ty C với công ty S. Công ty C có trách nhiệm nhập khẩu hàng về và giao hàng cho Công ty T nguyên đai, nguyên kiện. Lỗi của Công ty C là không kiểm tra số vận đơn có, không kiểm tra tàu chạy mà đã giao tiền lần 2 cho Công ty S Thái Lan là có sự vi phạm, dẫn đến việc vi phạm hợp đồng Logistics đã giao kết với Công ty T. Vì muốn thỏa thuận để giải quyết vụ án được nhanh chóng nên lần hòa giải trước Công ty T có giảm bớt số tiền yêu cầu, chỉ yêu cầu Công ty C bồi thường số tiền giao lần 2 là 65% giá trị hợp đồng tương đương số tiền 39.312.000 đồng. Nhưng do phía Công ty C không có thiện chí nên Công ty T vẫn giữ yêu cầu như đơn khởi kiện, yêu cầu Công ty C phải bồi thường số tiền 60.485.000 đồng.
Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xuất nhập khẩu Thực phẩm C
Ngày 12/7/2016, Công ty C có ký 3 hợp đồng dịch vụ Logistics số 127/2016-UTNK với Công ty T, nhận ủy thác nhập khẩu lô hàng đậu nành về Việt Nam. Công ty C chỉ chịu trách nhiệm đứng tên trên giấy tờ nhập khẩu, làm thủ tục hải quan và nhận chuyển hàng về kho của Công ty T. Công ty T tự liên hệ, thỏa thuận với Công ty S Thái Lan, gởi thông tin của Công ty C, tự làm hợp đồng với với bên nước ngoài, đàm phán chất lượng, giá cả… Công ty T yêu cầu Công ty C nhận tiền của Công ty T để chuyển cho Công ty S. Để hoàn có thể thực hiện thủ tục chuyển tiền thì Công ty C phải ký hợp đồng mua bán với Công ty S. Công ty C không hề biết về thời điểm giao hàng và tàu chạy khi chưa có thông tin từ Công ty T. Công ty C chỉ chuyển tiền theo chỉ định của Công ty T. Vận đơn cũng là do Công ty T gởi cho Công ty C. Công ty C xác nhận có ký hợp đồng mua bán với Công ty S Thái Lan theo chỉ định của Công ty T để chuyển tiền hợp lệ. Công ty C chỉ chịu trách nhiệm đứng tên trên giấy tờ nhập khẩu, làm thủ tục hải quan và vận chuyển hàng về mà không có trách nhiệm phải kiểm tra chứng từ hàng nhập, không có trách nhiệm xác minh đối tác nước ngoài. Công ty C đã chuyển tiền cho Công ty S đợt 1 ngay khi ký hợp đồng là 22.288.000 đồng, đợt 2 sau khi Công ty T nhận được bill của công ty S là 39.312.000 đồng. Công ty C không có lỗi và đã thực hiện đúng hợp đồng, Công ty C khẳng định chỉ ký hợp đồng dịch vụ Logistics với Công ty T, không ký hợp đồng ủy thác mua bán nào khác. Việc Công ty C ký hợp đồng mua bán với công ty S là để thực hiện hợp đồng Logistics với Công ty T nên không đồng ý bồi thường bất cứ khoản tiền nào như Công ty T yêu cầu.
Tại biên bản làm việc ngày 04/4/2017, Công ty C một lần nữa xác nhận không ký bất cứ hợp đồng uỷ thác nào với Công ty T , có xác nhận vai trò “đứng tên công ty uỷ thác theo dõi và báo cáo thế”. Công ty C xác nhận chỉ ký tên trên bản scan hợp đồng mua bán với công ty S, không có trách nhiệm làm việc với Công ty S. Tất cả các chứng từ như vận đơn, hợp đồng… đều do Công ty T đưa qua cho Công ty C và yêu cầu Công ty C phải chuyển tiền cho Công ty S. Công ty C chỉ có trách nhiệm làm thủ tục hải quan khi hàng về tại Cảng C, nhận hàng và vận chuyển đến kho cho Công ty T. Công ty C đã làm đúng theo hợp đồng dịch vụ Logistics đã ký.
Nhận định của Tòa án
Công ty T khởi kiện tranh chấp hợp đồng dịch vụ Logistics đối với Công ty C. Tại hợp đồng dịch vụ Logistics do hai bên ký kết ngày 12/7/2016, khoản 7.3 Điều VII phần cam kết chung hai bên thỏa thuận: “Nếu có bất kỳ tranh chấp hay bất đồng nảy sinh hoặc liên quan đến hợp đồng này… các bên có quyền đệ trình tranh chấp bất đồng đến Tòa án kinh tế TP.HCM để giải quyết…” Việc thỏa thuận về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của các bên không rõ ràng và không đúng theo qui định của pháp luật qui định tại Điều 35, 37, 39 Bộ luật tố tụng dân sự nên thỏa thuận về cơ quan giải quyết tranh chấp này là vô hiệu. Do vậy, Công ty T tranh chấp hợp đồng dịch vụ Logistics và khởi kiện tại Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Công ty C có trụ sở chính đăng ký tại quận Tân Bình nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Tân Bình.
Công ty T đòi Công ty C phải bồi thường số tiền 39.312.000 đồng. Căn cứ vào hợp đồng dịch vụ Logistic số 127/2016-UTNK ngày 12/7/2016, Công ty T và Công ty C có ký kết hợp đồng dịch vụ Logistics để giao nhận và vận chuyển hàng xuất nhập khẩu là đậu nành. Công ty T và Công ty C đều xác nhận hai bên chỉ ký kết hợp đồng dịch vụ Logistic số 127/2016-UTNK ngày 12/7/2016, không có hợp đồng về việc Công ty T ủy thác cho Công ty C mua bán hàng hóa hay nhập khẩu hạt đậu nành từ Công ty S ở Thái Lan. Công ty C có trách nhiệm nhập khẩu hàng về và giao hàng nguyên đai nguyên kiện như đã đàm phán. Đối tác nước ngoài giao hàng cho Công ty C do Công ty T chỉ định. Công ty C không chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa và giấy tờ nước ngoài, hồ sơ báo hàng trễ và đơn giá kê khai trong hợp đồng nhập khẩu. Điều này thể hiện việc Công ty S giao hàng cho Công ty C là do Công ty T đàm phán với Công ty S.
Theo hợp đồng Logistic, Công ty C chỉ có trách nhiệm đứng tên trên giấy tờ nhập khẩu hàng, làm thủ tục hải quan, vận chuyển hàng về kho Công ty T. Công ty T thừa nhận số tiền 60.485.000 đồng là tiền Công ty T đưa cho Công ty C để chuyển cho Công ty S theo như hợp đồng mua bán mà Công ty C đã ký với Công ty S ngày 19/7/2016. Công ty C cũng đã chuyển số tiền này cho Công ty S, có xác nhận của ngân hàng TMCP K– Chi nhánh T. Công ty C đã thực hiện đúng như hợp đồng Logistics nên không có lỗi trong việc không nhận được hàng của Công ty T. Vận đơn BLA ngày 25/7/2016 là do Công ty T cung cấp cho Công ty C nên việc không kiểm tra tính chính xác của vận đơn là lỗi hoàn toàn của Công ty T, yêu cầu Công ty C phải bồi thường số tiền 39.312.000 đồng là không có căn cứ.
Quyết định của Tòa án
Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty T đòi Công ty C bồi thường số tiền 39.312.000 đồng. Công ty T phải chịu án phí sơ thẩm.
Cơ sở pháp lý
Điều 302, 303 Luật thương mại 2005, khoản 3 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án, khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 302, 303, 233 Luật thương mại năm 2005; khoản 3 Điều 27 Pháp lệnh về án phí, lệ phí Tòa án.