Tóm Tắt Bản Án Số: 13/2023/HS-ST: Vi Phạm Quy Định Về Khám Chữa Bệnh, Sản Xuất Pha Chế, Cấp Phát Thuốc Và Các Dịch Vụ Y Tế Khác
Bản án số: 13/2023/HS-ST
Bị cáo: Ông N G N
Bị hại: Ông L V B ( Đã chết)
Ngươi có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà B T H – Anh L V T – Chị L T N
V/v Vi Phạm Quy Định Về Khám Chữa Bệnh, Sản Xuất Pha Chế, Cấp Phát Thuốc Và Các Dịch Vụ Y Tế Khác
Nội dung vụ việc
Ngày 11/11/2021, ông LVB đến phòng khám của bà Hà Thị Thúy Kiều để khám bệnh. Bà Kiều chẩn đoán ông LVB bị viêm khớp, hai gối tràn dịch và đưa ra phác đồ điều trị là truyền dịch có pha kháng sinh vào tĩnh mạch. Ông LVB được bà Kiều điều trị trong hai ngày 11 và 12/11/2021.
Ngày 13/11/2021, ông LVB đến thì bà Kiều không có nhà. Ông LVB đã nhờ ông N G N (dược sĩ), là chồng bà Kiều tiếp tục điều trị. Ông N G N thực hiện theo 3 đơn thuốc và phác đồ điều trị tại sổ theo dõi mà bà Kiều đã kê cho ông LVB vào ngày 11 và 12/11/2021.
Đầu tiên, Ông N đo huyết áp và lấy máu thì thấy ông LVB bị hạ đường huyết. Biết ông LVB chưa ăn sáng nên ông N bảo ông LVB ra ngoài ăn sáng rồi quay lại. Sau khi ông LVB quay lại phòng khám, ông N lấy 01 chai dịch Glucose Injection 5% cắm truyền vào tĩnh mạch cho ông LVB. Tiếp tục, Ông N lấy 01 lọ thuốc Supvizyn vitamin B 2ml và 01 lọ thuốc Solumedrol pha loãng tiêm vào tai dây truyền để truyền. Khi truyền hết các lọ thuốc trên, ông N lấy tiếp 01 lọ thuốc kháng sinh Ceftriaxone 1g pha loãng bơm vào chai dịch Glucose Injection 5% đang truyền cho ông LVB.
Khoảng 10 phút sau, ông LVB nằm im. Đo huyết áp, thấy huyết áp của ông LVB tụt thấp, Ông N nhờ người đưa ông LVB đi cấp cứu, đồng thời gọi điện thoại thông báo cho bà Kiều. Bà Kiều gọi xe cấp cứu của Bệnh viện đa khoa khu vực Ngọc Lặc. Trên đường ông LVB được đưa đi cấp cứu thì gặp xe cấp cứu của Bệnh viện Đa khoa khu vực Ngọc. Ông LVB được chuyển sang xe cấp cứu. Khi đến bệnh viện, ông LVB xác định đã tử vong từ trước đó. Quá trình khám nghiệm hiện trường, Ông N G N tự nguyện giao nộp các dụng cụ y tế và thuốc men đã dùng điều trị cho ông LVB là các ống xi lanh đã qua sử dụng, chai dung dịch nhãn hiệu Glucose Injection 5%, vỏ ống thuốc Supvizyn Vitamines B- 2ml, vỏ thuốc Solu – Medrol 40 mg, vỏ ống thuốc Adrenalin 1mg/1ml, ống thuốc Ceftriaxone Sodium for Injection 1.0g.
Kết luận giám định số 8447/PC09-P4 ngày 30/11/2021 Viện khoa học hình sự Bộ Công an. Trong tất cả các mẫu gửi giám định đều không tìm thấy các chất độc có thể gây chết người.
Bản kết luận giám định mô bệnh học và độc chất phủ tạng số 8498/C09-TT1, P4 ngày 6/12/2021 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an, kết luận nguyên nhân chết của ông LVB là suy hô hấp do phù phổi cấp.
Công văn số 1391/C09-TT1 ngày 05/7/2022 và Công văn số 3407/C09- TT1 ngày 20/12/2022 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an. Căn cứ vào các loại thuốc, dịch truyền được sử dụng trong quá trình điều trị, các triệu chứng lâm sàng, xác định nguyên nhân chết của ông LVB là hậu quả của phản ứng phản vệ do truyền dịch có pha Ceftriaxone. Quá trình điều tra xác định bị cáo N G N không có giấy phép khám bệnh, chữa bệnh theo quy định. Đối với hành vi của Phòng khám chuyên khoa răng hàm mặt do bà Hà Thị Thúy Kiều làm chủ, đã “Cung cấp dịch vụ khám, chữa bệnh vượt quá phạm vi chuyên môn được ghi trong giấy phép hoạt động khám, chữa bệnh”, vi phạm quy định tại điểm b, khoản 6 Điều 39 nghị định 117/2020/NĐ-CP ngày 8/9/2020 của Chính phủ, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.
Tại bản cáo trạng số 09 ngày 16/01/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Định. Truy tố bị cáo NGN về tội “Vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh” theo khoản 1 Điều 315 Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Định. Giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị xử phạt bị cáo NGN từ 21 tháng đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 21 tháng đến 24 tháng. Tịch thu, tiêu hủy toàn bộ mẫu vật sau giám định.
Ngươi có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà B T H – Anh L V T – Chị L T N. Xác nhận đã nhận đủ tiền bồi thường thiệt hại, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm. Đề nghị Hội đồng xét xử tạo điều kiện, xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đến mức thấp nhất có thể.
Nhận định của Tòa án
Quyết định của cơ quan điều tra Công an huyện Yên Định, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Định, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo NGN thừa nhận vào ngày 13/11/2021, dù không có chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh, nhưng đã thực hiện truyền dịch có pha Ceftriaxone, khiến ông LVB bị phản ứng phản vệ dẫn đến tử vong. Đủ cơ sở kết luận bị cáo NGN phạm tội “Vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 315 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, chủ động bồi thường, khắc phục hậu quả. Đại diện gia đình bị hại có đơn xin miễn giảm trách nhiệm hình sự cho bị cáo, tha thiết đề nghị Tòa án giảm nhẹ đến mức thấp nhất hình phạt, tạo điều kiện để bị cáo ổn định cuộc sống.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm đến chế độ quản lý về dịch vụ y tế của Nhà nước mà còn xâm phạm đến tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ, cần thiết phải xử lý nhiệm hình sự. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đã thăm hỏi và bồi thường đầy đủ cho gia đình bị hại, được gia đình bị hại làm đơn đề nghị giảm án.
Xét thấy bị cáo có khả năng tự cải tạo, việc bị cáo ở ngoài cộng đồng không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Quyết định của Tòa án
Tòa tuyên, bị cáo NGN phạm tội “Vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh”, xử 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 04 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo NGN cho Ủy ban nhân dân Thị trấn T, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách án treo. Bị cáo NGN phải chịu 200.000đ án phí.
Cơ sở pháp lý
Điểm a khoản 1 Điều 315, Khoản 1 Điều 47, Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 65 Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 6 Luật khám bệnh, chữa bệnh. Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.