Tóm Tắt Bản Án Số: 46/2024/HS-ST: Tự ý hành nghề khám chữa bệnh khi không có bằng cấp, chuyên môn theo quy định

Vania Van

Bản án số: 46/2024/HS-ST

Bị cáo:  Trần Thị L,

Bị hại:  Ông Nguyễn Văn H1, đã chết.

V/v Tự ý hành nghề khám chữa bệnh khi không có bằng cấp, chuyên môn theo quy định 

Nội dung vụ việc

Ông Phạm Văn R có chứng chỉ hành nghề dược và bằng trung cấp y sỹ, R mở cửa hàng bán thuốc tân dược tại nhà. Từ tháng 02/2023, ông R đi làm ở Hà Nội, Trần Thị L là vợ ông R không có chứng chỉ, bằng cấp gì liên quan đến y dược, hành nghề khám bệnh, chữa bệnh nhưng L đã tự ý bán thuốc và tiêm truyền khi có khách.

Khoảng 17 giờ ngày 03- 11- 2023, ông Nguyễn Văn H1 đến của hàng thuốc của ông Phạm Văn R tiêm thuốc điều trị bệnh thoái hoá đốt sống lưng. Trần Thị L, vợ ông R dù không có chứng chỉ, bằng cấp hành nghề khám bệnh nhưng đã điều trị cho ông H1.  Ông H1 trước đây đã điều trị tại nhà L nhiều lần. Đầu tiên, L lấy 01 ống  Cefotaxime, 01 ống Supvizyn và 01 ống nước cất để tiêm cho ông H1.  L sử dụng 01 chiếc xilanh lấy thuốc Cefotaxime và nước cất hoà vào nhau tiêm vào mông ông H1.  Khi tiêm được khoảng 4ml thì L nhớ ra là trước đây ông H1 có dặn L là ông không tiêm được thuốc Cefotaxime do đã từng bị sốc thuốc.  L dừng lại không tiêm nữa nhưng ông H1 bảo ông vẫn bình thường cứ tiêm tiếp. L tiêm hết thuốc trong xilanh, sau đó lấy thuốc Supvizyn tiêm tiếp vào mông cho ông H.  Một lúc sau, ông H1 bị tức ngực, khó thở, L liền lấy 01 ống thuốc Solumedrol là thuốc chống sốc tiêm vào ven tay phải cho ông H1 rồi dùng tay vỗ lưng cho ông H1 dễ thở xong tiếp tục lấy thuốc Salbutamol tiêm cho ông H1.  Khoảng 10 phút sau, ông H1 kêu khó thở nhiều, L liền gọi xe dịch vụ của anh Đặng Văn L1 đưa ông H1 vào bệnh viện. Sau đó khoảng 15 phút thì anh L1 thông báo cho L là ông H1 đã tử vong. Cơ quan điều tra đã thu giữ tại cửa hàng thuốc của Trần Thị L một số vật liệu như các loại thuốc đã qua sử dụng và dụng cụ y tế như bơm kim tiêm và băng keo, lọ thủy tinh…

Bản kết luận giám định mô bệnh học số 8161A/KL-KTHS ngày 24- 11- 2023 và số 8161B/KL-KTHS ngày 26- 11- 2023 của V – Bộ C3.  Hình ảnh mô cơ tim xung huyết, xuất huyết rải rác, thoái hoá thiểu dưỡng, một số vùng xơ hoá, phổi xung huyết, xuất huyết, phù phế nang rải rác, sơ vữa động mạch, các tạng còn lại xung huyết.  Trong một ống bơm kim tiêm bằng nhựa đã qua sử dụng gửi giám định có tìm thấy methylprednisolone và cefotaxinme. Trong mẫu máu ghi thu của tử thi Nguyễn Văn H1 tìm thấy thành phần cefotaxinme và methylprednisolone, không tìm thấy các chất độc thường gặp như Cyanide, M, thuốc diệt chuột, hoá chất bảo vệ thực vật …

Bản kết luận giám định tử thi số 1614/KLGĐTT-KTHS ngày 11- 12- 2023 của Phòng K – Công an tỉnh N. Ông Nguyễn Văn H1 chết do suy hô hấp, suy tuần hoàn, ngừng tim; trong cơ thể, trong máu có thành phần cefotaxinme và methylprednisolone.

Công văn số 33/PC09 ngày 25- 01- 2024 của Phòng kĩ thuật hình sự – Công an tỉnh N. Nạn nhân Nguyễn Văn H1 không có bệnh lý dẫn đến suy hô hấp, suy tuần hoàn, ngừng tim.

Cáo trạng số 38/CT-VKS ngày 15- 4- 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy.  Truy tố bị cáo Trần Thị L về tội “Vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh” theo điểm a khoản 1 Điều 315 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Thị L phạm tội “Vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh”. Xử phạt Trần Thị L từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm đến 03 năm; không áp dụng hình phạt bổ sung.

Bị cáo: Trần Thị L. Thừa nhận hành vi tự ý khám chữa bệnh khi không có bằng cấp chuyên môn, giấy phép hành nghề chữa bệnh, không tự bào chữa, tranh luận gì, tỏ rõ sự ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tới điều kiện hoàn cảnh của bị cáo để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Quá trình điều tra, Trần Thị L đã thỏa thuận bồi thường với gia đình của ông H1 là bà Bùi Thị P (vợ ông H1) và các Nguyễn Văn B, Nguyễn Thị N, Nguyễn Văn C1 và Nguyễn Văn C2 (là các con ông H1). Số tiền bồi thường thiệt hại là 120.000.000 đồng. Trần Thị L đã bồi thường được 70.000.000 đồng.  Còn lại 50.000.000 đồng.

Các đại diện gia đình người bị hại ông Nguyễn Văn H1 nhất trí với quan điểm luận tội của Kiểm sát viên, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo L và yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 50.000.000 đồng còn thiếu như đã thống nhất tại giai đoạn điều tra.

Nhận Định Của Tòa 

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, kết hợp với các kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận hành vi của Trần Thị L đã vi phạm khoản 3 Điều 7 (các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động khám chữa bệnh) và điểm a khoản 1 Điều 19 (điều kiện để cá nhân được phép khám bệnh, chữa bệnh) của Luật khám bệnh, gây hậu quả “làm chết một người”. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm tới trật tự quản lý của Nhà nước về khám bệnh, chữa bệnh; đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 315 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Trần Thị L có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi, đã bồi thường số tiền 70.000.000 đồng cho gia đình ông Nguyễn Văn H1; đại diện hợp pháp của ông H1 xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ.

Xét quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự và Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn về áp dụng án treo, Hội đồng xét xử thấy đủ điều kiện cho bị cáo hưởng án treo. Xét hoàn cảnh kinh tế bị cáo khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung.Bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định

Quyết định của Tòa 

Tuyên bị cáo Trần Thị L phạm tội “Vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh”.  Xử phạt L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 03 năm kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Trần Thị L cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện G giám sát giáo dục.

Ghi nhận thoả thuận: Bị cáo Trần Thị L phải bồi thường cho vợ và các con của người bị hại số tiền 120.000.000đ (Một trăm hai mươi triệu đồng). Bị cáo Trần Thị L đã bồi thường 70.000.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng), còn phải bồi thường 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng).

Buộc bị cáo Trần Thị L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 2.500.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Căn cứ pháp lý

Điểm a khoản 1 Điều 315, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm b khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật 6 Hình sự; khoản 1 Điều 47, khoản 1 Điều 48  của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Các điều 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;  Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016.