Tóm Tắt Bản án số: 677/2022/DS-PT: Tranh chấp bồi thường thiệt hại trong khám chữa bệnh

Vania Van

Bản án số: 677/2022/DS-PT 

Nguyên đơn:  Bà Lê Thị B, sinh năm 1985 

Bị đơn:  Công ty cổ phần Q 

V/v Tranh chấp bồi thường thiệt hại trong khám chữa bệnh 

 

Nội dung vụ việc

Nguyên đơn:  Bà Lê Thị B. 

Ngày 08/3/2020, bà Lê Thị B đến Phòng khám chuyên khoa răng hàm mặt – nha khoa V thuộc Công ty cổ phần Q (Phòng nha khoa) để thực hiện dịch vụ điều trị, làm đẹp răng. Thời gian thực hiện trong khoảng từ ngày 08/3/2020 đến ngày 14/4/2020 B với số tiền chi trả là 18.155.000 đồng.  Bà B cũng đã thanh toán xong các chi phí.  Một tuần sau khi làm răng, bà B bắt đầu có dấu hiệu đau ê buốt.  Sau khi kiểm tra, Phòng nha khoa yêu cầu đưa bà B đến bệnh viện chuyên khoa để thăm khám nhưng bà B không đồng ý và đến Bệnh viện Răng hàm mặt Trung ương để khám. 

Bệnh viện Răng hàm mặt Trung ương xác định bà B đã bị “viêm nướu, xâm lấn khoảng sinh học sau phục hình răng” và điều trị. Sau đó, Phòng nha khoa thanh toán cho bà B các chi phí điều trị theo hóa đơn của Bệnh viện Răng hàm mặt Trung ương do bà B xuất trình.  Quá trình điều trị kéo dài và phát sinh nhiều chi phí, bà B yêu cầu Phòng nha khoa thanh toán các khoản tiếp theo nhưng Phòng nha khoa đã không có trách nhiệm và thiện chí nên bà B khởi kiện cầu  Công ty cổ phần Q trả lại số tiền 18.155.000 đồng là chi phí cho dịch vụ khám, điều trị đã thực hiện. Bồi thường số tiền là 57.009.506 đồng do thực hiện dịch vụ điều trị không đạt kết quả như thỏa thuận. Tổng cộng là 75.164.056 đồng. 

 

Bị đơn:  Công ty cổ phần Q 

Phòng khám chuyên khoa răng hàm mặt – nha khoa V đã thực hiện dịch vụ làm thẩm mỹ các răng cho bà B như bà B đã trình bày.   Sau đó, răng bà B bị viêm, đau, Phòng nha khoa đã kiểm tra, khám và có đề nghị đưa bà B đến bệnh viện chuyên khoa khám, điều trị nhưng bà B từ chối và yêu cầu được tự đi khám.  Sau khi bà B đến khám và điều trị tại Bệnh viện răng hàm mặt Trung ương, Phòng nha khoa đã thanh toán tất cả các hóa đơn bà B mang về, đồng thời yêu cầu được làm lại mão sứ mới cho bà B nhưng bà B không đồng ý.   

Công ty Q chỉ đồng ý thanh toán các khoản bà B điều trị di chứng do việc làm răng tại Phòng nha khoa gây ra.  Đối với chi phí phục hình sứ thì Công ty Q sẽ làm lại phục hình sứ miễn phí cho bà B, không đồng ý chi trả tiền mặt cho chi phí dịch vụ theo yêu cầu của bà B.  Công ty Q cũng chi trả các khoản đi lại thăm khám, điều trị theo lịch hẹn điều trị của Bệnh viện răng hàm mặt Trung ương. Cụ thể:  Thanh toán chi phí phẫu thuật, điều trị và tiền thuốc tổng cộng là 5.609.056 đồng, chi phí đi lại theo lịch hẹn của Bệnh viện răng hàm mặt Trung ương trong 14 lượt là 1.211.000 đồng.  

 

Bản án dân sự sơ thẩm số 1985/2022/DS-ST ngày 06 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.  Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Lê Thị B. Buộc Công ty cổ phần Q thanh toán cho bà Lê Thị B số tiền phẫu thuật, tiền thuốc điều trị là 5.609.056 đồng và tiền chi phí đi lại trong thời gian điều trị là 1.211.000 đồng. Tổng số tiền phải thanh toán 6.820.056 đồng . Không chấp nhận trả lại các yêu cầu khác của bà B là: Tiền dịch vụ 18.500.000 đồng, chi phí bọc lại răng là 6.200.000 đồng, tiền ngưng việc trong thời gian điều trị 11.454.548 đồng, tiền dự kiến bọc mão sứ mới là 25.200.000 đồng, chi phí dự kiến đi lại và chi phí dự kiến ngưng việc trong thời gian tiếp theo.  

 Ngày 01/7/2022, bà Lê Thị B kháng cáo, yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.  

 

Tại phiên tòa phúc thẩm.  Bà Lê Thị B rút lại một phần yêu cầu khởi kiện. Rút yêu cầu Công ty cổ phần Q trả lại số tiền 18.155.000 đồng là chi phí cho dịch vụ khám, điều trị các răng.  Rút yêu  cầu bị đơn phải trả chi phí ngưng việc cho nguyên đơn với số tiền dự kiến là 11.454.548 đồng.  Rút yêu cầu trả chi phí đi lại để làm 04 răng tạm tính là 1.211.000 đồng.  Buộc Công ty cổ phần Q thanh toán cho bà số tiền phẫu thuật, tiền thuốc điều trị các răng là 5.609.056, chi phí đi lại trong thời gian điều trị là 1.211.000, chi phí bọc lại răng là 6.200.000 đồng, trả tiền dự kiến bọc mão sứ mới cho 04 răng là 25.200.000 đồng. Tổng số tiền Công ty Q phải trả cho bà là 38.220.056 đồng.  

Bà B trình bày:  Sau khi thực hiện việc khám và bọc răng sứ tại Công ty cổ phần Q, răng của nguyên đơn bị đau nhức, ê buốt và có đến phòng nha khoa để yêu cầu kiểm tra.  Ngày 25/4/2022, Phòng khám có sắp xếp bác sĩ Đặng Xuân T thăm khám cho bà.  Sau nhiều lần trao đổi, bà không còn tin tưởng vào chuyên môn của Công ty Q nên đã phải đến điều trị tại bệnh viện răng hàm mặt Trung ương Thành phố Hồ Chí Minh. Công ty Q cho rằng do bà đã thực hiện khám chữa răng tại phòng khám khác và thoái thác trách nhiệm bồi thường. 

Đại diện Công ty Q đồng ý với việc nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện, nhưng không chấp nhận kháng cáo của bà B. Bị đơn đã đồng ý hoàn trả cho nguyên đơn những chi phí hợp lý. Do nguyên đơn thăm khám tại phòng khám không theo đề nghị của bị đơn nên bị đơn không đồng ý hoàn trả các chi phí mà nguyên đơn yêu cầu.  Bị đơn đồng ý thực hiện việc bọc lại các răng sứ mà nguyên đơn đã thực hiện tại cơ sở của bị đơn hoàn toàn miễn phí. Bị đơn chỉ chấp nhận bồi hoàn cho nguyên đơn các chi phí theo quyết định của bản án sơ thẩm.  

 

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.  Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đã rút gồm: Yêu cầu Công ty cổ phần Q trả lại chi phí cho dịch vụ khám điều trị, chi phí ngưng việc để làm lại răng, chi phí dự kiến làm lại răng.  Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 1985/2022/DS-ST ngày 06/6/2022 theo hướng chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà B, buộc bị đơn trả lại số tiền điều trị và bọc răng sứ là 6.200.000 đồng.  Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà B về việ buộc bị đơn phải trả dự tính bọc răng sứ là 25.200.000 đồng.  

 

Nhận định của Tòa án

Tại phiên toà phúc thẩm, nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện và kháng cáo.  Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện, chấp nhận việc rút một phần yêu cầu kháng cáo.  Dù chưa có kết luận của Hội đồng chuyên môn về việc bị đơn có sai sót chuyên môn kỹ thuật theo quy định của Luật Khám chữa bệnh 2009, nhưng bị đơn đã xác nhận đây là các di chứng từ việc làm răng thẩm mỹ do bị đơn gây ra và đồng ý trả cho nguyên đơn các chi phí điều trị, đi lại tại Bệnh viện Răng hàm mặt Trung ương nên Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở.  

Theo chỉ định của bệnh viện Trung ương cho thấy, bệnh viện đã chỉ định thực hiện các biện pháp điều trị để chữa trị các biến chứng sau khi bị đơn thực hiện làm răng cho nguyên đơn.  Việc bọc lại mão sứ răng không chỉ là để đảm bảo thẩm mỹ, mà còn là điều trị phục hồi chức năng do bị “viêm nướu, xâm lấn khoảng sinh học sau phục hình răng.  Nguyên đơn đã thực hiện việc điều trị và chi phí thực tế được thể hiện tại phiếu thu số 0231007 ngày 24/8/2022 của bệnh viện răng hàm mặt Trung ương Thành phố Hồ Chí Minh số tiền là 6.200.000 đồng. Do đó, yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở để chấp nhận.  

Trong thời gian điều trị tại Bệnh viện răng hàm mặt Trung ương, nguyên đơn vẫn được người sử dụng lao động trả lương đầy đủ nên không bị mất thu nhập. Các chi phí nguyên đơn dự kiến như chi phí bọc mão răng, chi phí đi lại, chưa xảy ra và không phải thiệt hại thực tế phải bồi thường. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận các yêu cầu của nguyên đơn là đúng pháp luật, kháng cáo không có cơ sở chấp nhận. 

 

Quyết định của Tòa án

Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Lê Thị B. Sửa Bản án sơ thẩm số: 1985/2022/DS-ST ngày 06/6/2022 của Toà án nhân dân thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.  Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của bà Lê Thị B về việc yêu cầu Công ty cổ phần Q trả lại: Chi phí khám và điều trị răng là 18.155.000 đồng,  chi phí ngưng việc để làm lại răng dự kiến là 11.454.548 đồng, chi phí phải đi lại để làm lại răng dự kiến là 1.211.000 đồng.  Buộc Công ty cổ phần Q trả cho bà Lê Thị B số tiền phẫu thuật, tiền thuốc điều trị các là 5.609.056 đồng, chi phí đi lại trong thời gian điều trị là 6.200.000 đồng. Tổng số tiền là 13.020.056 đồng.  Không chấp nhận yêu cầu trả tiền dự kiến bọc mão sứ mới là 25.200 của bà Lê Thị B.  

 

Căn cứ pháp lý 

Điều 284, 289, 299 và 309 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 357, khoản 2 Điều 468, khoản 1 Điều 585, Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 6 điều 26, Điều 1, Điều 2, điều 77, khoản 1 Điều 80 Luật Khám, chữa bệnh năm 2009; Điều 26 Luật Thi hành án; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14