Tóm Tắt Bản Án Số 740.2023.DS-PT Tranh Chấp Đòi Tài Sản, Chia Thừa Kế
Bản án số: 740/2023/DS-PT
Nguyên đơn: Bà Phạm Thị D
Bị đơn: Ông Trương Quang T1, Bà Phạm Thị L (đã chết)
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: UBND C, tỉnh An giang, Ông Phạm H1 (đã chết).
Người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của bà L: Các ông bà Trương Quang T1, Trương Thị Diễm T2, Trương Giáng P1, Trần Thanh P, Trương Thị Diễm T2.
Người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của ông H1: Các ông bà Phạm Quí C, Phạm Quí C1, Phạm Phú V2, Phạm Thị B, Phạm Thị T4.
V/v: Tranh chấp đòi tài sản. Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Chia thừa kế
Nguyên đơn: Bà Phạm Thị D
Năm 1990, Ông Phạm H1 và bà Trần Thu C2 sang nước ngoài định cư nên đã làm ủy quyền kiêm chúc thư phân chia cho hai người con là bà D và bà L mỗi người được ½ căn nhà đất tọa lạc tại số F, Tổ A, ấp B, thị trấn C, huyện C, tỉnh An Giang. Sau đó, năm 2010, bà L cùng chồng là Trương Quang T1 tự ý kê khai và được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu căn nhà trên mà không có sự đồng ý của bà D.
Bà D làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết: Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CH 03861, ngày 24/9/2010 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông Trương Quang T1, bà Phạm Thị L. Buộc ông T1 và các đồng thừa kế của bà L có trách nhiệm trả lại cho bà D ½ quyền sở hữu nhà.
Ngày 20/3/2020, bà D nộp đơn yêu cầu thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, rút lại yêu cầu đòi lại tài sản đối với căn nhà và đất nêu trên, bổ sung yêu cầu chia di sản thừa kế của bà Phạm Thị L (Đã chết)cho cha mẹ ruột là ông H1 và bà Thu C2.
Bị đơn: Ông Trương Quang T1
Ngày 15/01/1990, ông Phạm H1 có làm giấy xác nhận không còn bất động sản gì trong phạm vi tỉnh An Giang. Đến ngày 27/6/1990, ông Phạm H1 làm giấy ủy quyền kiêm chúc thư cho căn nhà này cho 2 con là không đúng thực tế. Đến khoảng năm 1992- 1993, Bà C2 về nước mua thêm căn nhà nữa giao cho bà D, nên yêu cầu bà D và bà L phải làm giấy giao căn nhà đang tranh chấp cho bà L được sở hữu. Ngày 17/06/1997, bà D có ký tên vào tờ nhượng quyền để nhượng quyền sử dụng cho bà L, Bà L tự ý kê khai quyền sử dụng căn nhà. Ông T1 và bà L đã tiến hành cải tạo, sửa chữa toàn bộ căn nhà, ước tính vào thời điểm đó khoảng 450.000.000 đồng.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
Ông Trần Thanh P, bà Trương Thị Diễm T2. Ngày 07/7/2020, Ông P, bà T2 có đơn độc lập yêu cầu đòi lại giá trị tài sản tranh chấp là căn nhà trị giá 428.000.188 đồng, tọa lạc tại tổ A, ấp B, thị trấn C, huyện C, tỉnh An Giang. Do cha ông bà đứng tên quyền sử dụng đất, thực chất tiền cất nhà là do vợ chồng ông bà bỏ ra. Ông bà không đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ủy ban nhân dân huyện C
Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trương Quang T1 và bà Phạm Thị L là đúng trình tự thủ tục theo quy định.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2021/DSST
Ngày 04 tháng 02 năm 2021, Tòa án nhân dân tỉnh An Giang: Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu ông Trương Quang T1 và các đồng thừa kế của bà Phạm Thị L trả ½ quyền sở hữu nhà và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CH 03861, ngày 24/9/2010 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông Trương Quang T1, bà Phạm Thị L. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn xin chia 02 kỷ phần thừa kế của ông Phạm H1 bà Trần Thu C2 được hưởng thừa kế của bà Phạm Thị L. Riêng yêu cầu độc lập của ông Trần Thanh P , bà Trương Thị Diễm T2 đòi lại giá trị tài sản tranh chấp là căn nhà trị giá 428.000.188 đồng không được chấp nhận.
Ngày 05/02/2021, nguyên đơn bà D và các kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan của ông Phạm H1 có đơn kháng cáo cùng nội dung đề nghị cấp phúc thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm
Nguyên đơn cho rằng: Bà Phạm Thị L mất vào năm 2014 thì quyền thừa kế đã phát sinh đối với tài sản của bà L. đối với cha mẹ là cụ C2, cụ H1 đã được xác lập, theo đó phải xác định chia thừa kế cho cụ C2, cụ H1. Án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu chia thừa kế tài sản của bà L đối với cụ C2, cụ H1 là không đúng quy định.
Ông Trương Quang T1: Cụ H1 và Cụ C2 đã chết trước khi có đơn yêu cầu chia thừa kế vào năm 2020 nên dù các cụ thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà L nhưng đã mất quyền thừa kế, bà D và các anh chị em của bà L là những người thuộc hàng thừa kế thứ hai nên không có quyền yêu cầu chia thừa kế.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Phạm Thị D, hủy bản án sơ thẩm do thời điểm bà Phạm Thị L mất vào năm 2014 đã phát sinh quan hệ thừa kế. Thời điểm này cụ C2, cụ H1 vẫn còn sống và sau khi các cụ mất (năm 2017 và 2019), bà D và các con của cụ H1, cụ C2 có yêu cầu chia thừa kế di sản của bà L cho các cụ với tư cách người kế thừa quyền, nghĩa vụ của các cụ là có căn cứ để chấp nhận. Án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện là chưa đúng.
Nhận định của Tòa án
Theo yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cũng như các tài liệu chứng cứ đã được thu thập và công khai thể hiện: bà D, ông T1 đều thừa nhận nguồn gốc nhà và đất tranh chấp tại số F , tổ A, ấp B, thị trấn C, huyện C, tỉnh An Giang là của cha, mẹ là cụ Phạm H1 và Trần Thu C2 giao lại cho hai con là Phạm Thị D và Phạm Thị L được thụ hưởng, mỗi người được hưởng một nửa giá trị. Bà D cung cấp được các tài liệu chứng cứ chứng minh việc cụ H1 cụ C2 chia tài sản cho 02 con là bà D và bà L. Ngày 20/3/2020 bà D đã có đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, xin nhận 02 kỷ phần thừa kế của cụ H1 và cụ C2 được hưởng của bà L, đồng thời rút lại yêu cầu đòi tài sản và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ xét xử 02 yêu cầu này là đúng quy định.
Xét yêu cầu nhận 02 kỷ phần thừa kế của cụ H1, cụ C2 được hưởng từ bà L, thấy rằng: bà L mất năm 2014, cụ C2 mất năm 2017, cụ H1 mất năm 2019 nên sau khi bà L mất, hàng thừa kế thứ nhất gồm chồng và các con bà L cùng với cha, mẹ là cụ H1, cụ C2. Khi cụ H1 còn sống đã có tiến hành thủ tục đòi lại tài sản là căn nhà đang tranh chấp nhưng chưa được Tòa án thụ lý thì cụ mất. Bà D khởi kiện yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của bà L vẫn còn thời hiệu, là trường hợp thừa kế chuyển tiếp. Theo quy định thì cụ H1, cụ C2 được xác định là người thừa kế của bà L. Án sơ thẩm đã tuyên không chấp nhận yêu cầu này của bà D và những người con của cụ H1, cụ C2 và không xem xét các vấn đề về việc kế thừa các quyền, nghĩa vụ của người thừa kế, cũng như các vấn đề về giá trị tài sản chung 8 của ông T1, bà L cùng các con của ông bà, kể cả yêu cầu độc lập của ông Trần Thanh P, bà Trương Thị Diễm T2 đòi lại giá trị xây dựng căn nhà trên phần đất đang tranh chấp là 428.000.188 đồng là chưa đúng, cần thu thập chứng cứ để giải quyết lại theo đúng quy định pháp luật về thừa kế.
Quyết định của Tòa án
Chấp nhận kháng cáo của bà Phạm Thị D. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với yêu cầu ông Trương Quang T1 và các đồng thừa kế của bà Phạm Thị L trả ½ quyền sở hữu nhà, đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CH 03861.
Hủy một phần bản án sơ thẩm đối với phần giải quyết yêu cầu của nguyên đơn xin chia 02 kỷ phần thừa kế của ông Phạm H1 và bà Trần Thu C2 được hưởng thừa kế của bà Phạm Thị L. và yêu cầu độc lập của ông Trần Thanh P, bà Trương Thị Diễm T2 đòi lại giá trị xây dựng căn. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh An Giang giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Cơ sở pháp lý
Điều 34, Điều 37, Điều 74, Điều 144, Điều 146, Điều 147, Điều 160, 165, 217, Khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 651, 652 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.