Tóm Tắt Bản Án Số: 95/2023/HS-ST: Vi phạm quy định trong khám chữa bệnh  gây hậu quả chết người

Vania Van

Bản án số : 95/2023/HS-ST 

Bị cáo: Phan Đức H

Bị hại: Nguyễn Thị Lệ  T (Đã chết)

Đại diện người đại diện hợp pháp của người bị hại: Bà Từ Thị Đúng và anh Nguyễn Văn Ái

V/v Vi phạm quy định trong khám chữa bệnh  gây hậu quả chết người 

 

Nội dung vụ việc

Phan Đức H là  thạc sĩ, bác sĩ y  khoa, có Chứng chỉ hành nghề khám bệnh chữa bệnh số:  0000916/ĐNO-CCHN do Sở Y tế tỉnh Đắk Nông cấp ngày 01/8/2014. Nội dung, “Bằng cấp chuyên môn: Bác sỹ chuyên khoa định hướng Phẫu thuật thẩm mỹ” và “Phạm vi hoạt động chuyên môn: Khám và Phẫu thuật thẩm mỹ”.  Nơi ở của Phan Đức H tại nhà số XYZ, đường M L, phường B H H A, quận B T chưa được cấp giấy phép hoạt động Phòng khám chuyên khoa Thẩm mỹ, nhưng H lại mua sắm vật tư, trang thiết bị y tế về hành nghề phẫu thuật thẩm mỹ.  

Ngày 03/7/2021, chị Nguyễn Thị Lệ T đến nhà của Phan Đức H tại số XYZ, đường M L, phường B H H A, quận B T để thực hiện phẫu thuật thẩm mỹ vùng ngực và âm đạo. Chi phí thực hiện phẫu thuật là 47.000.000 đồng. Chị T đưa trước 12.000.000 đồng. H cho chị T uống 02 viên Seduxen, 01 viên Clopheramine, truyền dịch, đo huyết áp và nhịp tim.  Sau đó, H đưa chị T vào phòng phẫu thuật.  H tiếp tục tiêm 02 ống thuốc gây tê cục bộ hiệu Lidocain 2% ống 2ml dưới da vùng vú của chị T.  Khoảng 10 phút sau, H dùng dao phẫu thuật tách da dưới vùng vú bên phải thì chị T kêu đau nên H tiêm thêm thuốc Lidocain có pha 01 giọt gây mê tăng cường Adrenaline tương đương 0,01ml .  Tính đến khi mở được khoang vú bên phải thì H đã tiêm khoảng 10 ống thuốc gây mê tăng cường.  H tiếp tục dùng dao phẫu thuật mở khoang vú bên trái thì chị T có biểu hiện suy hô hấp, tím tái trên khuôn mặt, mạch và huyết áp thể hiện trên máy đo  điện tử là 70/40.  H nghĩ chị T bị sốc thuốc nên đã dừng phẫu thuật, tiến hành hồi sức hỗ trợ tích cực bằng cách cho chị T thở bình oxy, nhưng chị T bắt đầu co giật, tăng tiết đờm.  H dùng máy hút đờm, đặt ống nội khí quản, bóp bóng thở và truyền 02 chai nước biển cho chị T.   H tiếp tục pha 01 ống Adrenaline vào đường truyền nước biển và tiêm trực tiếp 02 ống Adrenaline vào vùng tim của chị T. Đến 15 giờ cùng ngày chị T tử vong.  Sau đó, H liên hệ với mẹ ruột của chị T thông báo đến đóng tiền viện phí, nhưng lúc gia đình của chị T gọi lại thì H không nghe máy.  Khi xác định được quê của chị T ở tỉnh Trà Vinh nên H mượn xe ôtô biển số 51H-814.03 của con ruột là Phan Đức H1 và trực tiếp điều khiển xe, chở thi thể chị T về tỉnh Trà Vinh để bàn giao cho gia đình an táng. Khi xe H đến địa phận tỉnh Trà Vinh, do không liên lạc được với gia đình của chị T, lo sợ tử thi bị hoại tử nên H đưa thi thể chị T đến Trại hòm Hai Viên, ấp Giồng Dầu, xã Hòa Ân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh nói trước nếu như khoảng 02 giờ nữa mà không tìm được nhà gia đình chị T thì quay lại nhờ mai táng và lưu giữ thi thể chị T.  Nghe vậy, anh Lưu Hữu D là chủ Trại hòm nghi ngờ nên trình báo sự việc cho Công an huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.  Khoảng 09 giờ ngày 05/7/2021, khi H quay lại thì Cơ quan điều tra Công an huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh đến làm việc  và thông báo cho Cơ quan điều tra Công an quận Bình Tân biết để thụ lý giải quyết theo thẩm quyền.  

Bản kết luận giám định pháp y về mô bệnh học số: 54/21/MBH, ngày 12/7/2021 và Bản kết luận giám định Pháp y về hóa pháp số: 263/266/337/21/ĐC, ngày 15/7/2021  của Viện Pháp y Quốc gia Phân viện tại Thành phố Hồ Chí Minh. Kết luận: Chị Nguyễn Thị Lệ T bị sung huyết các tạng . Lồng ống thận chứa đầy trụ hồng cầu.  Mô kẽ cơ vân phù, tụ máu trong mô liên kết mỡ sợi. Thiểu dưỡng cơ tim cấp. Sung huyết và phù phổi cấp.  Một số tế bào của các cơ quan đang trong giai đoạn hoại tử. Trong mẫu phủ tạng vụ Nguyễn Thị Lệ  T có tìm thấy Lidocain.  Không tìm thấy các chất độc khác. 

Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 426/KLGĐ, ngày 16/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Trà Vinh, kết luận: Chị Nguyễn Thị Lệ T toàn thân tử thi trương, hoại tử nhiều nơi.  Rách da cơ dưới vú 2 bên, xung quanh vết rách có vết bầm tụ máu.  Tụ máu dưới da và cơ dưới vú phải, da cơ lóc (bóc tách) khỏi xương sường, xương ức.  Phổi hai bên phù sưng huyết, xuất huyết; hệ thống khí phế quản trong lòng tăng tiết, sung huyết, xuất huyết.  Cơ tim nhão, mặt sau 2 tâm thất sung huyết, xuất huyết.  Buồng tim chứa ít máu không đông.  Thiểu dưỡng cơ tim cấp, sung huyết và phù phổi cấp, các cơ quan khác sung huyết, hoại tử.  Có tìm thấy Lidocain trong mẫu phủ tạng.  Nguyên nhân chính dẫn đến Nguyễn Thị Lệ T tử vong là do suy tim cấp, suy hô hấp trên cơ địa có Lidocain. 

Công văn số: 1060/TTra, ngày 21/10/2021 của Thanh tra – Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh và Công văn số: 133/SYT-NVD, ngày 13/10/2021 của  Phòng Nghiệp vụ Dược Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh về trả lời công dụng các loại thuốc thu giữ và quy trình phẫu thuật thẩm mỹ nâng ngực như sau:  Clorphenamin là thuốc kháng histamin, điều trị triệu chứng viêm mũi dị ứng  mùa và quanh năm, mày đay… hoặc điều trị sốc phản vệ.  Diazepam tên thương mại là Seduxen là thuốc an thần, giải lo âu, gây ngủ, được sử dụng trong những trạng thái lo âu, kích động, mất ngủ. Trong trường hợp trầm cảm có kèm trạng thái lo âu, kích động, mất ngủ, có thể dùng  diazepam cùng với các thuốc chống trầm cảm hoặc sử dụng để tiền mê trước khi phẫu thuật.  Gentamicin là thuốc kháng sinh nhóm aminoglycosid, thường được dùng phối hợp với các kháng sinh khác để điều trị các bệnh nhiễm khuẩn nặng toàn thân.  Midazolam tên thương mại là Paciflam là thuốc an thần nhóm benzodia zepin, được sử dụng gây mê.  Lidocain là thuốc tê, thuốc chống loạn nhịp nhóm 1B, gây tê tại chỗ niêm mạc trước khi thăm khám, nội soi, đặt thiết bị kỹ thuật hoặc tiến hành các thủ thuật khác và làm giảm triệu chứng đau trong nhiều bệnh.  Adrenaline là thuốc kích thích giao cảm chống phản vệ, hỗ trợ cho thuốc gây tê, giãn phế quản, chống sung huyết, co mạch.  Lignospan Standard là thuốc chỉ định gây tê tại chỗ.  Sodium Clorid  là thuốc  cung cấp chất điện giải. Povidone iodine là thuốc sát khuẩn các vết thương ô nhiễm và da, niêm mạc trước khi phẫu thuật hoặc lau rửa các dụng cụ y tế trước khi tiệt khuẩn. 

Phiếu chuyển số: 300/PC-NVY, ngày 18/10/2021 của Phòng Nghiệp vụ Y Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh  trả lời Công văn số: 1021/Ttra của Thanh tra Sở.  Tại số XYZ, đường Mã Lò, phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân, Sở Y tế chưa cấp giấy phép hoạt động, phê duyệt quy trình kỹ thuật và danh mục kỹ thuật cho bất kỳ cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nào.  Ông Phan Đức H chưa được Sở Y tế phê duyệt cho phép thực hiện kỹ thuật liên quan đến chuyên khoa phẫu thuật thẩm mỹ tại bất kỳ cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nào trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Việc ông Phan Đức H thực hiện khám bệnh, chữa bệnh và thực hiện các kỹ thuật trong khám chữa bệnh tại số XYZ, đường Mã Lò, phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân là trái pháp.   

Công văn số: 3098/BVĐHYD-KHĐT, ngày 08/11/2021 của Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.  Ngày 15/4/2011, Bệnh viện đã cấp cho ông Phan Đức H chứng nhận số 12/GCN-BVĐHYD vì đã tham dự lớp tập huấn “Căn bản về hút mỡ thẩm mỹ”, và ngày 16/7/2011, đã cấp Giấy chứng nhận số 24/GCN-BVĐHYD vì đã tham dự lớp tập huấn “Căn bản về nâng ngực thẩm mỹ”. Các giấy chứng nhận này không có giá trị chứng nhận học viên được trực tiếp thực hiện phẫu thuật nâng ngực.  

Công văn số 50/TTra, ngày 13/01/2022 của Thanh tra Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh.  Liều lượng thuốc Lidocain mà Phan Đức H sử dụng khi tiến hành phẫu thuật nâng ngực cho chị Nguyễn Thị Lệ T chưa có cơ sở để xác định có quá liều hay không.  Việc ông Phan Đức H sử dụng thuốc tê để thực hiện “phẫu thuật thẩm mỹ nâng ngực và âm đạo” là không đúng quy định. 

Công văn số 17/PC09, ngày 02/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Trà.  Nguyên nhân chính dẫn đến chị Nguyễn Thị Lệ T tử vong là do suy tim cấp, suy hô hấp cấp có khả năng là do Lindocain gây nên.  

Bị cáo: Phan Đức H.  Bị cáo có các văn bằng, chứng nhận chủ yếu như Thạc sĩ Bác sĩ Y học, Chứng chỉ hành nghề khám chữa bệnh với bằng cấp chuyên môn “Bác sỹ chuyên khoa định  hướng Phẫu thuật thẩm mỹ” và “Phạm vi hoạt động chuyên môn: Khám và phẫu thuật thẩm mỹ” cùng nhiều Giấy chứng nhận dự lớp tập huấn về thẩm mỹ khác. Trong thời gian trao dồi kiến thức tại Khoa thẩm mỹ Bệnh viện quận Phú Nhuận, bị cáo có gặp chị Nguyễn Thị Lệ T, chị T yêu cầu nâng ngực và phẫu thuật vùng kín sau sinh. Bị cáo báo đồng ý và báo giá cho chị là 74.000.000 đồng.  Sau đó bị cáo giúp đỡ giảm giá xuống 50.000.000 đồng. Một thời gian sau đó bị cáo bớt thêm cho chị 3.000.000, chỉ lấy giá 47.000.000 đồng và hẹn ngày phẫu thuật.  Theo hẹn, khoảng 08 giờ ngày 03/7/2021, chị T tự một mình đến nhà của bị cáo và có đưa trước cho bị cáo 12.000.000 đồng, số tiền còn lại chị sẽ thanh toán sau.  Quá trình tiến hành ca phẫu thuật và sự cố xảy ra sau đó như nội dung vụ án đã trình bày.  Sau đó, Công an huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh phát hiện toàn bộ sự việc.  Bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố.  Bị cáo đã tự nguyện bồi thường tiền tổ chức mai táng chị T là 30.000.000 đồng, tiền tổn thất tinh thần cho người thân chị T là 160.000.000 đồng. Đồng thời bồi thường số tiền 1.676.320.000 đồng, là tiền cấp dưỡng nuôi 02 con của chị T cho đến đủ 18 tuổi. 

Đại diện người đại diện hợp pháp của chị T: Bà Từ Thị Đúng và anh Nguyễn Văn Ái.  Chi phí tẩm liệm cho chị T là 30.000.000 đồng đã được phía gia đình bị cáo thanh toán xong. Chỉ yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại một lần tổng số tiền 1.676.320.000 đồng gồm các khoản: Tiền cấp dưỡng nuôi 02 con chung T là 617.760.000 đồng và  898.560.000 đồng tính từ lúc chị T chết cho đến khi các con đủ 18 tuổi,  tiền tổn thất tinh thần là 160.000.000 đồng.  Đồng thời xin giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo. 

Bản cáo trạng số: 03/CT-VKS, ngày 13 tháng 12 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Phan Đức H ra trước Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử về “Tội vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh”, theo điểm a khoản 1 Điều 315 Bộ luật Hình sự năm 2015. 

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quạn Bình Tân.  Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ cũng như nội dung Cáo trạng đã công bố. Có đủ cơ sở để khẳng định đây là vụ án “Vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh” do bị cáo Phan Đức H thực hiện trong lúc không có giấy phép hoạt động và chưa được cơ quan có thẩm quyền cấp phép thực hiện phẫu thuật thẩm mỹ trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Dẫn đến chị T tử vong trong quá trình phẫu thuật rồi sau đó H bị phát hiện bắt giữ.  Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý về dịch vụ y tế của Nhà nước, xâm phạm đến tính mạng của người khác nên cần phải xử bị cáo với mức án nghiêm.  Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường được 01 phần thiệt hại cho gia đình bị hại để khắc phục hậu quả, cha mẹ ruột có công với cách mạng, nên xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. 

 

Nhận định của Tòa án

Đủ căn cứ xác định bị cáo Phan Đức H phạm “Tội vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh”. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, không những gây thiệt hại cho tính mạng của người khác mà còn làm giảm đi hiệu lực quản lý của Nhà nước về lĩnh vực khám chữa bệnh. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai, vi phạm pháp luật nhưng do tính cẩu thả, tự tin vào bản thân và xem thường Luật khám bệnh, chữa bệnh nên đã gây ra chết  người. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự trong vụ án với mức án thật nghiêm và tương xứng với với tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng nhân thân của bị cáo thì mới có đủ sức giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.  

 

Quyết định của Tòa án

Tuyên bị cáo Phan Đức H phạm “Tội vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh”.  Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo đã bồi thường thiệt hại người thân của người bị hại số tiền 30.000.000 đồng mai táng và 1.676.320.000 đồng là tiền tổn thương tinh thần và tiền cấp dưỡng cho hai con của bị hại cho đến khi đủ 18 tuổi. Tịch thu tiêu hủy các vật chứng, thuốc men dùng để thực hiện phẫu thuật tại cơ sở không có giấy phép hoạt động tổ chức khám chữa bệnh của bị cáo Phan Đức H. 

 

Cơ sở pháp lý 

Điểm a khoản 1 Điều 315; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, Khoản 2 Điều 48 Bộ luật Hình sự 2015; Các điều 357, 468, 585, 586, 591, 357 và 468 Bộ luật Dân sự 2015.