Tóm Tắt TB Số 31.2022.KDTM-PT Về Tranh Chấp Hợp Đồng Cung Ứng Dịch Vụ
Bản án số: 31/2022/KDTM-PT
Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Vận tải biển C
Bị đơn: Công ty Cổ phần Cảng Q
V/v: Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ.
Nguyên đơn: Công ty TNHH Vận tải biển C
Công ty Cổng phần Cảng Q (Công ty Q) và Công ty TNHH Vận tải biển C ( Công ty C) ký kết hợp Hợp đồng kinh tế số 274/CUULONG/2016/01.02 ngày 12. 10. 2016 và 04 phụ lục hợp đồng về việc thuê tàu lai vào khai thác tại Cảng Q trong 10 năm. Ngày 01.07.2017, Công ty Q không thực hiện đúng hợp đồng và quy định của pháp luật về hàng hải nên xảy ra tranh chấp. Công ty C khởi kiện yêu cầu Công ty Q tiếp tục thực hiện hợp đồng, thanh toán nợ phí dịch vụ lai dắt tàu là 24.438.203.936 đồng. Và bồi thường thiệt hại do hành vi không cho Công ty C thực hiện công việc lai dắt như cam kết tại hợp đồng trong hai năm 2019 và 2020 là 41.865.421.192 đồng, cũng như các khoản lãi theo quy định của pháp luật, do chậm thanh toán các khoản nợ.
Lý do Công ty C kiện vì: Tháng 07.2017, hai bên có mâu thuẫn do việc áp dụng biểu khung giá phí lai dắt không đúng quy định trong thanh toán. Công ty C gửi Công văn số 72/CV-CL ngày 04-12-2018 cho Công ty Q với nội dung: “Nếu Công ty Q không thực hiện nghĩa vụ thanh toán như đã thu khách hàng, thì Công ty C sẽ chấm dứt Hợp đồng số 274/CUULONG/2016/01.02 vào ngày 05-12-2018”. Công ty Q đã vin cớ vào Công văn số 72/CV-CL ngày 04-12-2018 để cho rằng chính Công ty C đã đơn phương chấm dứt Hợp đồng số 274/CUULONG/2016/01.02, nên họ đã không cho đội tàu lai của Công ty C tiếp tục thực hiện hợp đồng kể từ ngày 01-01-2019. Trong thanh toán phí dịch vụ lai dắt, Công ty Q đã thực hiện đúng quy định của pháp luật về ưu đãi thuế giá trị gia tăng tại Điều 9 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31-12- 2013 của Bộ Tài chính, nên có sự chênh lệch, Công ty Q phải thanh toán số tiền còn nợ lại cho Công ty C là 24.438.203.936 đồng. Việc ngừng hợp đồng, chuyển sang hợp tác cùng Công ty Công ty TNHH Thương mại Vận tải P (Công ty P) ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh sản xuất của Công ty C nên Công ty Q phải có trách nhiệm bồi thườngthiệt hại là 41.865.421.192 đồng. Đồng thời có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ tiền lãi đối với các khoản tiền đang chiếm giữ của Công ty C.
Bị đơn: Công ty Q
Công ty Q đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ đã cam kết tại hợp đồng và phụ lục hợp đồng đã ký. Tuy nhiên, ngày 04-12-2018, Công ty C đã gửi Công văn số 72/CV-CL thông báo sẽ chấm dứt hợp đồng. Lý do Công ty C đưa ra là Cảng Q không phân biệt tính cước tàu lai dắt theo giá nội, giá ngoại là không đủ căn cứ. Công ty Q không vi phạm các quy định tại hợp đồng, Phụ lục hợp đồng về nghĩa vụ và đơn giá thanh toán cho Công ty C. Các yêu cầu về bồi thường thiệt hại trong hai năm 2019 và 2010 của Công ty C là không có căn cứ để chấp nhận.
Công ty C là đơn vị duy nhất cung ứng dịch vụ tàu lai dắt cho Công ty Q, để đảm bảo hoạt động khai thác thông suốt, thì Công ty Q buộc phải ký Hợp đồng kinh tế số 12.2018/QNP-PTL với Công ty P để thực hiện dịch vụ lai dắt.
Tại Bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 05/2022/KDTM-ST ngày 15-7-2022
Toà án nhân dân tỉnh Bình Định: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty C. Buộc Công ty Q thanh toán cho Công ty C số tiền phí dịch vụ là 24.438.203.936 đồng; trả tiền lãi do chậm thanh toán là 4.390.748.000 đồng; Bồi thường thiệt hại cho Công ty C trong hai năm 2019 và 2020 là: 21.066.570.128 đồng. Buộc Công ty Q tiếp tục thực hiện Hợp đồng kinh tế số 274/CUULONG/2016/01 đã ký kết cùng Công ty C. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty Q yêu cầu Công ty C phải hoàn trả số tiền chênh lệch là 1.388.422.570 đồng bồi thường thiệt hại 1.226.826.810 đồng. Công ty Q và Công ty C cùng lần lượt kháng cáo.
Nhận định của Tòa án
Tại phiên toà phúc thẩm. Nguyên đơn giữ nguyên kháng cáo, buộc bị đơn phải bồi thường thiệt hại do hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng và phải thanh toán khoản tiền lãi chậm trả.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị đơn. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn. Giữ nguyên bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Tòa án cấp sơ thẩm Buộc Công ty Q phải thanh toán phí dịch vụ lai dắt từ ngày 01-7-2017 đến hết ngày 05-12-2018, với số tiền còn nợ là 24.438.303.936 đồng cho Công ty C là có căn cứ. Buộc Công ty Q phải trả lãi chậm thanh toán 4.390.748.000 đồng là đúng luật.
Đối với yêu cầu tính lãi phát sinh, do Hợp đồng số 274/CUULONG/2016/01.02 không quy định rõ thời gian trả nợ, nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định thời gian chậm trả sẽ được tính từ ngày Tòa án thụ lý yêu cầu thanh toán nợ.
Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại và lợi ích bị mất do hành vi không cho Công ty C thực hiện lai dắt như đã cam kết tại Hợp đồng số 274/CUULONG/2016/01.02 trong năm 2019 và 2020 với tổng số tiền là 41.865.421.192 đồng, phần Chi phí lãi vay Ngân hàng; chi phí sửa chữa, bảo dưỡng tàu và chi phí khấu hao tài sản, chi phí nhân công, BHXH là có căn cứ.
Đối với lợi ích bị mất do hành vi Công ty Q không cho Công ty C thực hiện lai dắt như đã cam kết tại Hợp đồng số 274/CUULONG/2016/01.02 trong hai năm. Yêu cầu này là do Công ty C tự tính, không lường trước được các sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan như thiên tai, dịch bệnh…. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận phần yêu cầu này của nguyên đơn là đúng pháp luật. Đối với Hợp đồng số 274/CUULONG/2016/01.02 ký ngày 12-10-2016 vẫn còn hiệu lực, Tòa án cấp sơ thẩm buộc các bên phải tiếp tục thực hiện hợp đồng là có căn cứ.
Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty C. Công ty Q phải có nghĩa vụ trả cho Công ty C các khoản tổng cộng là 53.480.418.064 đồng.
Đối với kháng cáo của bị đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị đơn.
Quyết định của Tòa án
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị đơn là Công ty Q. Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn là Công ty C. Sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 05/2022/KDTM-ST ngày 15-7-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định về phần Bồi thường thiệt hại và phần Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty C. Buộc Công ty Q phải có nghĩa vụ trả cho Công ty C phí dịch vụ nợ chưa thanh toán, bồi thường thiệt hại và tiền lãi chậm thanh toán tổng cộng 53.480.418.064 đồng, đồng thời tiếp tục thực hiện hợp đồng 274/CUULONG/2016/01.02.
Cơ sở pháp lý
Căn cứ khoản 1 Điều 30, khoản 2 Điều 37, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 74, 78, 85, 86, 87, 302, 303, 304 và 306 của Luật Thương mại năm 2005; các Điều 256, 257 và 258 của Bộ Luật hàng hải Việt Nam; Điều 6, khoản1, 4, 5 Điều 26 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14. Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự. khoản 3 Điều 296, khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự. khoản 5 Điều 30, Điều 37, Điều 200, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Điều 468 của Bộ luật Dân sự. khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 148 của bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 13, khoản 1 Điều 275, Điều 280, khoản 1 Điều 351, các Điều 352, 357, 360, 361, 401, khoản 1 Điều 402, các Điều 403, 410, 419, 513, 514 21 của Bộ luật Dân sự; các Điều 74, 78, 85, 86, 87, 302, 303, 304, 306 của Luật Thương mại; các Điều 256, 257 và 258 của Bộ luật Hàng hải Việt Nam