Tranh Chấp Đơn Phương Chấm Dứt Hợp Đồng Lao Động
Bản án số : 1127 /2017/LĐ-PT
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Ngọc T
Bị đơn: Công ty Cổ phần Quốc tế BT
Về việc: Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Nội dung vụ án
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Ngọc T
Bà T bắt đầu làm việc tại Công ty Cổ phần Quốc tế BT (gọi tắt là Công ty BT) từ ngày 16/11/2015. Ngày01/01/2016, bà ký với công ty BT hợp đồng lao động thời hạn 3 năm với chức danh Chuyên viên C & B, mức lương trong hợp đồng là 4.700.000đ/tháng, lương thực lãnh là 8.520.000đ/tháng, trong thời gian làm việc tại công ty bà không vi phạm kỷ luật lao động.
Ngày 03/01/2017 bà nhận được thông báo “ Không tái ký hợp đồng lao động”, ngày 04/01/2017 bà đến Phòng Lao động Thương binh Xã hội Quận B khiếu nại, đến ngày 09/01/2017 bà nhận được thư từ công ty về việc thu hồi “Thông báo không tái ký hợp đồng lao động” và “Thông báo tinh giảm biên chế phòng nhân sự”.
Ngày 11/01/2017 bà T về làm việc tại công ty và không đồng ý chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn theo biên bản làm việc ngày 11/01/2017.
Ngày 24/01/2017 bà T nhận được quyết định chấm dứt hợp đồng lao động.
Ngày 06/2/2017 bà T gửi đơn yêu cầu hòa giải tranh chấp lao động lên Phòng Lao động Thương binh Xã hội Quận B, ngày 17/02/2017 bà T và công ty hòa giải, công ty không đồng ý nhận bà T trở lại làm việc mà chỉ hỗ trợ 2 tháng tiền lương, bà T không đồng ý và yêu cầu công ty: Thu hồi quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 01/2017/QĐNV-HCNS ký ngày 23/01/2017, nhận bà trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã ký. Bồi thường 2 tháng tiền lương tổng cộng là 17.040.000 đồng. Trả lương những ngày không được làm việc, tính từ ngày 12/02/2017 đến ngày bà được nhận trở lại làm việc. Nếu công ty không đồng ý nhận bà trở lại làm việc thì ngoài việc trả lương trong những ngày bà T không được làm việc, yêu cầu công ty phải bồi thường thêm cho bà 2 tháng tiền lương là 8.520.000 đồng x 2 = 17.040.000 đồng và chốt sổ bảo hiểm xã hội của bà T.
Bị đơn: Công ty Cổ phần BT
Công ty BT có ký hợp đồng thời hạn 3 năm với bà T với mức lương như bà T nêu. Trong quá trình làm việc tại công ty, mặc dù bà T không vi phạm nghiêm trọng kỷ luật lao động nhưng chỉ hoàn thành nhiệm vụ được giao ở mức trung bình yếu, trong công tác có nhiều sai sót, không có sự tương tác hỗ trợ với các phòng ban nghiệp vụ chuyên môn, không đủ năng lực chuyên môn cùng công ty tái cấu trúc để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Ngày 28/12/2016 công ty ra thông báo không tiếp tục tái ký hợp đồng lao động với bà T. Sau đó, đến ngày 03/01/2017 công ty ra thông báo thu hồi do phòng nhân sự nhầm lẫn thời hạn hợp đồng lao động giữa bà T và công ty.
Ngày 23/01/2017 công ty ra quyết định số 01/2017/QĐNV-HCNS về việc chấm dứt hợp đồng lao động với bà T kể từ ngày 11/2/2017.
Bà T khởi kiện công ty yêu cầu thu hồi quyết định chấm dứt hợp đồng lao động, nhận bà trở lại làm việc. Công ty không đồng ý vì: Bà T có trình độ chuyên môn ở tầm trung bình yếu, không có sự tương tác hỗ trợ với các phòng ban nghiệp vụ chuyên môn, không hợp tác trong quá trình tái cấu trúc để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của công ty. Việc công ty thực hiện giảm biên chế do tái cơ cấu nhân lực đã được công ty gửi thông báo đến Phòng Lao động Thương binh xã hội theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận B: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Bản án lao động sơ thẩm số 1048/2017/DSST ngày 08/9/2017 của Tòa án nhân dân Quận B, tuyên xử Quyết định chấm dứt hợp đồng số 001/2017/QĐNV-HCNS ngày 23/01/2017 của Công ty Cổ phần BT là trái pháp luật. Công ty Cổ phần BT phải bồi thường cho bà Nguyễn Ngọc T lương những ngày không làm việc, không nhận lại người lao động do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật tổng cộng: 93.720.000 đồng. Chịu án phí 2.811.600 đồng. Ccó nghĩa vụ chốt sổ bảo hiểm xã hội cho bà T đến hết ngày 08/9/2017. Công ty BT nộp đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Bà Nguyễn Ngọc T yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm. Công ty Cổ phần BT trình bày: Công ty đã cố gắng đào tạo người lao động nhưng không phù hợp, công ty cho người lao động nghỉ việc là vì thay đổi cơ cấu tổ chức nhân sự, công ty không đồng ý yêu cầu công ty nhận bà T trở lại làm việc. Đề nghị tòa án xử theo đúng quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh: Hội đồng xét xử theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Đơn kháng cáo của bị đơn nộp đúng hạn luật định nên hợp lệ. Hợp đồng lao động giữa bà T ký với công ty BT là 3 năm, công ty ra quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với bà T, cho là tái cơ cấu bộ máy hành chính công ty nhưng không có phương án sử dụng lao động, không có văn bản thông báo gửi Sở Lao động Thương binh Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, không có trao đổi với tổ chức lao động tập thể ở cơ sở nên trái pháp luật. Công ty phải có trách nhiệm bồi thường cho bà T như án sơ thẩm đã tuyên xử. Đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị đơn. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Nhận định của tòa án
Đơn kháng cáo của Công ty BT hợp lệ nên được chấp nhận. Tiến trình sự việc: Về nội dung hợp đồng lao động giữa bà T và công ty BT ký kết thời hạn là 3 năm, Bà T cho là công ty BT đã tự đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với bà trái quy định của pháp luật và yêu cầu bồi thường. Công ty BT chấm dứt hợp đồng lao động với bà T theo đề án tái cấu trúc của công ty, không nhận bà T trở lại làm việc hay bồi thường như yêu cầu của bà T.
Xét thấy măc dù công ty BT ra công văn gửi Phòng Lao động Thương Binh Xã hội Quận B thông báo về việc tái cơ cấu và tinh giảm nhân sự trong đó có bà Nguyễn Ngọc T, nhưng trong trường hợp thay đổi cơ cấu mà phải cho thôi việc đối với nhiều người lao động thì người sử dụng lao động phải có trách nhiệm xây dựng và thực hiện phương án sử dụng lao động. Công ty chưa thành lập tổ chức công đoàn nhưng không tổ chức họp lấy ý kiến đại diện tập thể lao động, chưa thông báo cho Sở Lao động Thương binh Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh trước. Như vậy công ty đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật đối với bà T, công ty có trách nhiệm bồi thường cho bà T. Án sơ thẩm đã xử đúng.
Kết luận của Tòa án
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Ngọc T. Quyết định chấm dứt hợp đồng số 001/2017/QĐNV-HCNS ngày23/01/2017 của Công ty BT là trái pháp luật. Buộc Công ty BT phải trả cho bà T tổng cộng là 93.720.000 đồng ( Chín mươi ba triệu bảy trăm hai mươi nghìn đồng). Có nghĩa vụ chốt sổ bảo hiểm xã hội cho bà T đến hết ngày 08/9/2017. Chịu án phí lao động sơ thẩm là: 2.811.600 đồng.
Cơ sở pháp lý: Căn cứ theo Điều 44 Bộ luật Lao động, Điều 23 Nghị định 05/2015/NĐ-CP; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 này 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Căn cứ Luật Bảo hiểm xã hội, Luật thi hành án dân sự; Điều 272, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 41, 42, 44, 46 Bộ luật Lao động; khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự.